Các biện pháp xây dựng lòng tin và an ninh ở khu vực Biển Đông trong bối cảnh hiện nay
1. Nhu cầu về các biện pháp xây dựng lòng tin trên Biển Đông
Bước sang thế kỷ XXI, môi trường biển ngày càng trở nên quan trọng đối với các quốc gia ven biển cũng như các cường quốc về hàng hải. Duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các quốc gia trong và ngoài khu vực. Do đó, mọi nỗ lực của các quốc gia trong khu vực Biển Đông và cộng đồng quốc tế vì một vùng biển thực sự ổn định, hòa bình để phát triển kinh tế là nhu cầu cấp thiết. Các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần kiên trì đường lối đối ngoại hòa bình, để tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất. Một trong những giải pháp hữu ích đó là thiết lập các biện pháp tăng cường xây dựng lòng tin giữa các quốc gia xung quanh Biển Đông thông qua các diễn đàn quốc tế và diễn đàn khu vực.
Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 6 năm 2011 tại New York (Mỹ) đã khai mạc Hội nghị lần thứ 21 các quốc gia thành viên Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về Luật biển năm 1982, với sự tham dự của đại diện 200 quốc gia thành viên Công ước, các nước thành viên LHQ và các tổ chức quốc tế. Đại diện phái đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Lương Minh làm trưởng đoàn đã có bài phát biểu, trong đó thể hiện cam kết của Việt Nam thực hiện một cách nghiêm túc Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo thông qua biện pháp đàm phán, hợp tác ngoại giao hòa bình, dựa trên các nguyên tắc công bằng, không sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực. Phối hợp trong công tác bảo vệ và giữ gìn môi trường biển trong sạch, chống ô nhiễm môi trường biển, hợp tác đấu tranh chống cướp biển, cướp có vũ trang. Bài phát biểu đã thể hiện quan điểm của Việt Nam là kiên quyết phản đối sự kiện của ngày 26 tháng 5 năm 2011 và sự kiện ngày 09 tháng 6 năm 2011 tại vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam đối với các hành động mang tính chất đơn phương của Trung Quốc cho tàu Hải giám cắt cáp các tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II của Việt Nam trong lúc đang thăm dò địa chấn và dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam chiếu theo Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982. Các hành động đó của phía Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền vùng biển của Việt Nam. Đồng thời, tại Hội nghị, Trưởng đoàn Việt Nam cũng bác bỏ đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông, khẳng định đường yêu sách này hoàn toàn không có bất cứ cơ sở pháp lý quốc tế nào, đặc biệt theo Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982.
Qua các hành động nêu trên cho thấy Trung Quốc muốn biến vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp với Trung Quốc, đây là hành động có chủ ý và được tính toán, chuẩn bị kỹ lưỡng, lợi dụng tàu hải quân và tàu cảnh sát biển Việt Nam chưa ra kịp, để thực hiện hành vi xâm phạm. Ngay sau bài phát biểu của trưởng đoàn Việt Nam, các thành viên ASEAN đều nhất trí và chia sẻ quan điểm của Việt Nam và yêu cầu các quốc gia ven biển, các quốc gia quần đảo phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Công ước LHQ về Luật biển năm 1982. Các thành viên ASEAN cũng đã phản đối hành động của phía Trung Quốc và kêu gọi các bên nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố của các bên về ứng xử ở Biển Đông (DOC) và các nguyên tắc cơ bản của Luật biển quốc tế hiện đại, đặc biệt là Công ước 1982.
Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định lại quyết tâm và lập trường của Việt Nam thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật biển cũng như Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC nhằm xây dựng khu vực Biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị và ổn định.
Từ ngày 07 đến ngày 10 tháng 6 năm 2011 tại Surabaya (Indonesia) đã diễn ra Hội nghị của ASEAN, tham dự hội nghị gồm có đại diện 10 nước thành viên ASEAN. Tại hội nghị, đại diện phía Việt Nam Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Quang Vinh đã có bài phát biểu, trong đó khẳng định quan điểm của Việt Nam ủng hộ các nỗ lực tăng cường xây dựng lòng tin và hợp tác vì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải ở Biển Đông. Quan điểm đó của Việt Nam đã được các đại biểu tham dự hội nghị đồng tình ủng hộ và nhất trí cao.
Hệ quả của việc phát triển quốc phòng, chủ yếu là hải quân và cảnh sát biển của các quốc gia trong khu vực Biển Đông trong bối cảnh hiện nay, là một yêu cầu thực tiễn đặt ra cần có một số biện pháp khả dĩ cần phải tiến hành xây dựng lòng tin và an ninh trên Biển Đông. Các biện pháp xây dựng lòng tin trong khu vực Biển Đông đã được nêu lên và cần gấp rút thực thi đối với các quốc gia hữu quan trong khu vực Biển Đông nhằm giảm bớt căng thẳng. Mục đích của các biện pháp xây dựng lòng tin là xây dựng lòng tin giữa các lực lượng hải quân, cảnh sát biển và các lực lượng làm nhiệm vụ thực thi pháp luật trên biển của các quốc gia trong khu vực Biển Đông và sự hợp tác để tiến tới một môi trường biển được đảm bảo an ninh và ổn định hòa bình để phát triển kinh tế.
Hoạt động tuần tra chung giữa lực lượng hải quân, cảnh sát biển của các nước trong khu vực Biển Đông đang ngày càng được đề cao, những hành động đó của lực lượng quốc phòng của các nước đã góp phần tạo nên môi trường hòa bình, ổn định và điều đó có thể dẫn tới các biện pháp xây dựng lòng tin như các thủ tục giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông để giải quyết các va chạm hải quân trên biển và tăng cường hợp tác quốc tế về kiểm soát và đảm bảo an toàn hàng hải nhằm giảm bớt nguy cơ xung đột tiềm tàng ở khu vực Biển Đông.
Trong bối cảnh hiện nay, các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin nhằm giảm bớt nguy cơ xung đột vũ trang tiềm tàng, thông qua các thỏa thuận hoạt động hợp tác song phương và đa phương như tuần tra chung, diễn tập chung giữa lực lượng quốc phòng của các nước. Những hoạt động có tính chất quan trọng đó được phối hợp hoạt động giữa các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển như: hải quân, cảnh sát biển của các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Đồng thời, các quốc gia xung quanh Biển Đông cần thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp hoạt động tuần tra chung, nhằm quản lý tốt vùng biển, góp phần giữ gìn môi trường biển hòa bình, giảm bớt căng thẳng ở khu vực.
Các quốc gia trên khu vực Biển Đông dù đang có sự tranh chấp chủ quyền về biển, đảo nhưng đều có lợi ích và nguyện vọng chung là duy trì hòa bình, ổn định để hợp tác cùng phát triển kinh tế. Yêu cầu quan trọng đối với các quốc gia có yêu sách chủ quyền trong khu vực Biển Đông đó là các tranh chấp phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982. Các nước ASEAN và Trung Quốc cần thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 tại Campuchia. ASEAN và Trung Quốc cần tiến tới soạn thảo Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Trong chiến lược phát triển quốc gia về biển, hầu hết các quốc gia trong khu vực Biển Đông đã và đang tập trung đầu tư kinh phí phát triển lực lượng hải quân, cảnh sát biển, tiến hành mua sắm các trang thiết bị hiện đại, như máy bay tiêm kích, tàu ngầm. Các hoạt động của lực lượng hải quân, cảnh sát biển ngày càng gia tăng và được chú trọng. Quả thực là các hoạt động này có thể còn tăng lên vì tham vọng phát triển lực lượng của hải quân, cảnh sát biển trong Biển Đông đang được thực hiện. Trong bối cảnh hiện nay cho thấy, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Đài Loan đang đầu tư tăng cường cho sức mạnh quốc phòng của mình, đặc biệt là lực lượng hải quân, cảnh sát biển và không quân ven biển.
Tất cả các nước ASEAN cụ thể là các quốc gia trong khu vực Biển Đông đang quan tâm ngày càng nhiều đến khả năng hoạt động của lực lượng hải quân, cảnh sát biển trong cơ cấu của lực lượng quốc phòng. Với những nguồn lực từ sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, các quốc gia trong khu vực Biển Đông đã có một số lượng lớn các phương tiện, thiết bị cho cuộc chiến tranh công nghệ cao trên biển nếu xảy ra gồm cả tàu ngầm, máy bay tiêm kích của hải quân, không quân và các tàu chiến tiên tiến được trang bị các hệ thống tên lửa tầm xa. Bên cạnh sự gia tăng số lượng tàu chiến trong lực lượng hải quân của các nước trong khu vực Biển Đông, còn có những thay đổi rất đáng kể về chất lượng. Ngoài Trung Quốc và Thái Lan có tàu sân bay, các quốc gia khác cũng đang trong quá trình hiện đại hóa trang bị, vũ khí và phương tiện cho các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển như hải quân, cảnh sát biển.
Ở mức chiến lược cao hơn các quốc gia trong khu vực Biển Đông đang lo ngại về một khoảng trống quyền lực có thể phát sinh trong khu vực theo bất kỳ một sự cắt giảm nào đối với sự hiện diện của lực lượng hải quân Mỹ và về sự phát triển sức mạnh lực lượng hải quân trên thực tế của Trung Quốc. Ở mức độ thấp hơn ngoài Trung Quốc, các quốc gia còn lại trong khu vực Biển Đông đã nhận thấy các lợi ích trên biển, kể cả những yêu sách về không gian, địa chiến lược và nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển.
An ninh kinh tế lâu dài của khu vực và các cường quốc về hàng hải có lợi ích ở khu vực Biển Đông sẽ phụ thuộc vào dòng chảy của mậu dịch tự do, điều mà trong tình huống xảy ra xung đột vũ trang sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận chuyển hàng hóa qua khu vực Biển Đông.
Trước đây, việc kiểm soát hàng hải và bảo vệ công tác vận tải của tàu thuyền hầu như dành cho các cường quốc về hàng hải trên thế giới, nhưng trong bối cảnh hiện nay, điều đó đã được chia sẻ đối với sự quan tâm của các quốc gia ven biển nói chung, cũng như đối với các quốc gia trong khu vực Biển Đông nói riêng. Còn có một mối quan tâm khác nữa mà các quốc gia xung quanh Biển Đông đang đề cập tới, đó là các nguồn tài nguyên ngoài khơi, đặc biệt là khu vùng đáy Biển Đông được đánh giá là có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí đốt.
Trong bối cảnh hiện nay, ở khu vực Biển Đông đang có nhiều lực lượng hoạt động như: hải quân, cảnh sát biển và các lực lượng bán vũ trang khác như kiểm ngư, hải giám thực thi nhiệm vụ trên biển cùng với một số lượng ngày càng lớn của các thiết bị chiến đấu trên mặt biển như tàu ngầm và máy bay tiêm kích. Điều đó cho thấy, ở đây sẽ có một cuộc chạy đua vũ trang của lực lượng hải quân, cảnh sát biển giữa các nước trong khu vực, nếu các hành động đơn phương xâm phạm chủ quyền vùng biển của các quốc gia khác và các hành vi vi phạm luật biển quốc tế không được ngăn chặn và giải quyết kịp thời. Sự phát triển cơ cấu của lực lượng hải quân, cảnh sát biển và một số lực lượng khác thực thi nhiệm vụ trên biển trong bối cảnh hiện nay ở khu vực Biển Đông là kết quả của sự tăng trưởng sức mạnh kinh tế, của lý do chiến lược được nhận thức và của sự tự vệ, phòng thủ của các nước.
Sự thật cho thấy, các chương trình phát triển, các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia lại đang được triển khai trong một bầu không khí căng thẳng, phức tạp và có phần thiếu sự tin tưởng lẫn nhau do tương đối thiếu sự hiểu biết lẫn nhau. Trong khi có một mức độ bất an như vậy, ở khu vực Biển Đông còn có những nguyên nhân khác nhau làm cho khu vực trở nên căng thẳng phức tạp, như việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế hiện đại, các hành động đơn phương vi phạm chủ quyền biển đảo do quan điểm khác nhau về chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia vẫn còn tồn tại. Những nguyên nhân đó có thể dẫn đến sự xung đột vũ trang tiềm tàng, dễ gây bất ổn định trong khu vực.
Bên cạnh đó, còn có một nguy cơ khác nữa, đó là sự hiểu lầm hoạt động giữa các lực lượng hải quân, cảnh sát biển được trang bị các tàu chiến đấu mặt nước, tàu ngầm và máy bay của các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Nguy cơ này còn cao hơn bởi sự có mặt của các tàu ngầm, tàu sân bay và các hệ thống tên lửa tầm xa, những thiết bị hiện đại đòi hỏi trình độ làm việc của các chiến binh phải chính xác, hệ thống chỉ huy và điều hành phải đạt hiệu quả cao, để tránh mắc lỗi và tính toán nhầm lẫn khi tiến hành các hoạt động như diễn tập, huấn luyện bắn đạn thật.
Do đó, việc theo đuổi các biện pháp xây dựng lòng tin thông qua các thỏa thuận tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển, phối hợp đảm bảo an toàn hàng hải, hợp tác đấu tranh chống cướp biển, cướp có vũ trang ở khu vực Biển Đông nói riêng và khu vực - Thái Bình Dương nói chung là nhu cầu cấp thiết, cần được triển khai thực hiện theo đúng lộ trình, qua các diễn đàn đàm phán song phương và đa phương trong bối cảnh hiện nay.
2. Bản chất của các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển
Các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần phân biệt các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển với các biện pháp chung, nhằm kiểm soát vũ khí của lực lượng hải quân, cảnh sát biển bao gồm cả các biện pháp có tính cơ cấu để hạn chế hoặc giảm bớt số lượng hoặc chất lượng của các thiết bị. Các quốc gia trong khu vực cần thông báo cho nhau khả năng hoạt động của lực lượng hải quân, cảnh sát biển cùng các biện pháp tác chiến và cần phải giới hạn các hoạt động hải quân, cảnh sát biển trong các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của mỗi quốc gia, không được vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia khác.
Những đề nghị về kiểm soát các trang thiết bị, vũ khí quốc phòng, tính minh bạch trong chính sách quốc phòng, an ninh và chủ trương của các quốc gia về hòa bình và giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển, đảo là nền tảng quan trọng để xây dựng lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Phối hợp thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin thông qua các thỏa thuận tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển chung, hợp tác đấu tranh chống cướp biển, cướp có vũ trang, phối hợp cùng nhau tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển, là những biện pháp xây dựng lòng tin để làm giảm nguy cơ xung đột và không còn các hoạt động đơn phương gây phương hại đến lợi ích của các quốc gia khác.
Trong bối cảnh hiện nay, vì tính phức tạp của tình hình ở Biển Đông đang có nhiều diễn biến căng thẳng gây quan ngại cho khu vực thế giới, đặc biệt là quan điểm của các quốc gia về tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tự do hàng hải, khai thác tài nguyên, nên các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển là cách thức tốt nhất làm giảm các nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang, đây là những vấn đề cấp thiết của khu vực, phù hợp với xu thế hợp tác, hòa bình, hữu nghị của khu vực và thế giới.
Các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển có thể được áp dụng dưới nhiều dạng khác nhau. Chúng có thể được áp dụng ở cấp độ song phương hoặc đa phương, khu vực hay toàn cầu. Các biện pháp xây dựng lòng tin có thể có một mục tiêu chính trị. Ví dụ, các thỏa thuận không được tiến hành các hoạt động đặc biệt như tập trận, diễn tập bắn đạn thật tại một vùng biển đang có tranh chấp thực sự chiếu theo Công ước của LHQ về Luật biển quốc tế năm 1982. Đặc biệt yêu cầu các quốc gia trong khu vực không được phát triển một số kỹ thuật chiến tranh trên biển nhất định, hoặc phải thực hiện nghiêm chỉnh tuyên bố của các bên về ứng xử ở Biển Đông DOC năm 2002, để tiến tới soạn thảo và thông qua Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC vào thời gian thích hợp. Nếu COC được soạn thảo và thông qua thì COC sẽ có tính chất pháp lý ràng buộc cao hơn DOC. Một mục tiêu khác để tăng cường xây dựng lòng tin đó là các quốc gia xung quanh Biển Đông cần trao đổi thông tin về kiểm soát hàng hải, thông báo cho nhau biết trước về kế hoạch hoạt động huấn luyện, diễn tập bắn đạn thật của lực lượng hải quân, cảnh sát biển của các quốc gia trong khu vực.
Tuy nhiên, cũng có một số chồng chéo giữa các biện pháp xây dựng lòng tin với kiểm soát vũ khí, nếu như các biện pháp xây dựng lòng tin hạn chế các hoạt động theo một cách nào đó. Ví dụ, chế độ về quyền kiểm soát vũ khí như đã được làm rõ trong Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), trên thực tế đều là một việc kiểm soát vũ khí lẫn một biện pháp xây dựng lòng tin. UNCLOS đặt ra những giới hạn đặc biệt đối với tàu chiến khi chúng thực hiện quyền qua lại vô hại, và quy định rằng tàu ngầm phải nổi khi đi qua vô hại ở lãnh hải vùng tiếp giáp lãnh hải của các quốc gia ven biển, các quốc gia quần đảo.
Bối cảnh hiện nay có nhiều cơ hội để áp dụng các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển được định hướng về mặt chính trị ở khu vực Biển Đông. Các biện pháp có triển vọng thành công là những biện pháp có cơ sở rõ ràng trên các hoạt động thực tế của các lực lượng hải quân, cảnh sát biển, không quân trong khu vực thực hiện kế hoạch định kỳ hàng năm, ngoài ra các quốc gia cần phải thông báo cho nhau biết về các kế hoạch diễn tập bắn đạn thật trên biển. Hiện nay, có hai khả năng đó là có một chế độ kiểm soát và an toàn hàng hải trong khu vực Biển Đông và một chế độ hợp tác khu vực nhằm tránh đụng độ, biến cố song phương trên biển.
3. Kiểm soát và đảm bảo an toàn hàng hải
Trong bối cảnh hiện nay, ở khu vực Biển Đông cần có một cơ chế hợp tác giữa các quốc gia về kiểm soát và an toàn hàng hải toàn diện, những nhiệm vụ này bao gồm kiểm soát hàng hải, kể cả việc thành lập một bảng chạy tàu cho tất cả các tàu trong khu vực, cần phải áp dụng chế độ này vào bất kỳ thời gian nào. Lập kế hoạch kiểm soát hoạt động của hải quân, cảnh sát biển chủ yếu là hoạt động diễn tập bắn đạn thật, tập trận và các hoạt động nhằm bảo vệ các tàu thuyền đi qua khu vực Biển Đông.
Các quốc gia cần chung sức theo dõi các hoạt động bất hợp pháp, gồm cả buôn lậu, cướp có vũ trang, di cư bất hợp pháp, hay hành vi đánh cá vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia khác, để có cách thức phối hợp cùng nhau giải quyết các sự vụ trên thông qua biện pháp ngoại giao hòa bình và dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế hiện đại. Phối hợp hoạt động chống cướp biển cần phải được thường xuyên tiến hành, đặc biệt là ở khu vực eo biển Singapore và eo biển Malacca.
Tăng cường công tác phối hợp bảo đảm an toàn hàng hải dọc theo những tuyến đường biển nhộn nhịp có số lượng lớn tàu thuyền qua lại trong khu vực. Kiểm soát và theo dõi ô nhiễm môi trường biển, và chung sức tiến hành các hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường biển theo yêu cầu của luật biển, đặc biệt các quốc gia trong khu vực cùng chia sẻ các thông tin và thông báo tình hình về hoạt động hàng hải và các hoạt động đơn phương của mình như diễn tập, huấn luyện bắn đạn thật trên biển cho các quốc gia khác nắm rõ tình hình tránh sự hiểu lầm.
Các hoạt động có sự phối hợp như diễn tập, huấn luyện, tuần tra chung trên biển giữa các nước ban đầu sẽ khó thực hiện và chưa được sẵn sàng chấp nhận đối phó với tất cả các hoạt động đó, vì lý do các nước chưa thật sự hiểu nhau, tin tưởng lẫn nhau. Nhưng đó là một sự gợi ý về những hoạt động có ích cho việc tăng cường xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, nhằm tránh các biến cố song phương có thể xảy ra trên biển. Ngược lại, việc thiết lập kế hoạch cho các hoạt động mang tính chất đơn phương và nhạy cảm như huấn luyện bắn đạn thật, diễn tập trong thời điểm mà tình hình khu vực Biển Đông có những diễn biến phức tạp, thì việc tiến hành thực sự các hoạt động phối hợp tuần tra chung, diễn tập chung của lực lượng hải quân, cảnh sát biển, nghiên cứu khoa học biển chung sẽ làm giảm bớt tình hình căng thẳng trong bối cảnh hiện nay ở khu vực Biển Đông.
Lợi ích về biện pháp xây dựng an ninh và lòng tin đối với các quốc gia trong khu vực Biển Đông hiện nay rất quan trọng nhằm tạo một môi trường hòa bình, ổn định để cùng nhau phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng có một số khó khăn nhất định trong việc tạo lập các hoạt động mà không mang lại lợi ích chung cho toàn thể các quốc gia trong khu vực. Như sự đánh bắt cá bất hợp pháp của ngư dân của các quốc gia xung quanh Biển Đông, các hành vi xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia khác để thăm dò nguồn tài nguyên biển, đây là những lĩnh vực dẫn đến sự bất đồng về lợi ích giữa các quốc gia hữu quan và làm cho khu vực trở nên căng thẳng, dễ gây bất ổn.
Mặc dù có những khó khăn trên, nhưng sẽ có những lợi ích rõ ràng từ chế độ an toàn hàng hải và kiểm soát các hành động đơn phương gây bất ổn trong khu vực, nếu các quốc gia trong khu vực Biển Đông tiến hành hợp tác xây dựng lòng tin thông qua các cơ chế hoạt động có sự hợp tác cùng nhau như: nghiên cứu khoa học biển chung, tuần tra chung giữa các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển, phối hợp tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển.
Các thỏa thuận về tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển chung, phối hợp đấu tranh chống cướp biển, cướp có cũ trang, phối hợp tìm kiếm cứu hộ và cứu nạn giữa các quốc gia trong khu vực sẽ cải thiện việc kiểm soát các vùng biển trong khu vực Biển Đông một cách có hiệu quả và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế hiện đại, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982.
Còn về mặt chiến lược, một cơ chế hợp tác quốc tế như vậy là điều minh chứng cho sự chuẩn bị sẵn sàng của các nước trong khu vực Biển Đông tiến tới một giải pháp hòa bình cùng nhau hành động, nhằm bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải, góp phần gìn giữ môi trường biển hòa bình, ổn định trong khu vực để phát triển kinh tế.
Sự thành công của Hiệp định Xô - Mỹ đã để lại bài học kinh nghiệm cho các quốc gia ven biển trong quá trình xây dựng lòng tin để tìm ra phương thức tối ưu cho việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo thông qua biện pháp hợp tác ngoại giao hòa bình, điều đó đã dẫn đến những gợi ý về các thỏa thuận đa phương và song phương đối với khu vực Biển Đông.
Thỏa thuận giữa Việt Nam và Malaysia về vùng khai thác chung năm 1992, thỏa thuận về tuần tra chung giữa lực lượng Hải quân Việt Nam và lực lượng Hải quân Trung Quốc, thỏa thuận về tuần tra chung giữa lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và lực lượng Kiểm ngư Trung Quốc, thỏa thuận về tuần tra chung giữa lực lượng Hải quân Việt Nam với lực lượng Hải quân Hoàng gia Thái Lan, thỏa thuận về tuần tra chung giữa lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam với lực lượng Cảnh sát biển Campuchia, thỏa thuận về nghiên cứu khoa học biển chung giữa Việt Nam, Trung Quốc và Philippines. Đây là những thỏa thuận lần đầu tiên đã được thực hiện một cách hòa bình và tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia ở khu vực Biển Đông diễn ra trong một thập niên vừa qua, các thỏa thuận đó đã góp phần làm giảm bớt sự căng thẳng và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nội dung của các thỏa thuận đó cũng được xem là tiền đề cho việc tiến tới đàm phán hòa bình, nhằm giải quyết vấn đề phân định biển hiện nay giữa các nước.
Để thực hiện các thỏa thuận hợp tác quốc tế về tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển chung sẽ gặp một số vấn đề trở ngại như sau:
Những nội dung của các thỏa thuận song phương về tuần tra chung giữa các nước trong khu vực Biển Đông chưa thực sự được các quốc gia trong khu vực Biển Đông đề cao và duy trì thường xuyên. Các thỏa thuận đó chưa được phổ biến một cách rộng rãi đối với các quốc gia có yêu sách chủ quyền trong khu vực Biển Đông.
Mặt khác, các thỏa thuận đó chưa trở thành hình mẫu chung cho tất cả các quốc gia trong khu vực Biển Đông, một số quốc gia khác chưa sẵn sàng để tiến hành các biện pháp gây dựng lòng tin thông qua các thỏa thuận về tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển chung, một số quốc gia đến nay vẫn chưa tham dự vào các hoạt động tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển chung của khu vực như Malaysia, Singapore.
Các thỏa thuận đó chỉ giới hạn ở các hoạt động trên các vùng biển mà các quốc gia có yêu sách chủ quyền hầu như không được thực hiện. Vì vậy, có thể coi các thỏa thuận là một sự giới hạn cả về quyền của các quốc gia ven biển có liên quan cũng như sự tự do qua lại vô hại của tàu thuyền các nước khác theo luật hàng hải và luật biển quốc tế hiện đại trong các vùng biển của khu vực Biển Đông. Bởi vì trong lúc phối hợp diễn tập, tuần tra chung thì khu vực biển đó bị giới nghiêm đối với các phương tiện vận tải biển muốn hành trình qua khu vực.
Thành công của các thỏa thuận hiện hành chỉ mang tính chất song phương giữa hai quốc gia, chưa có sự phối hợp đa phương trong khu vực Biển Đông, trong tương lai, cần có sự phối hợp tuần tra chung với sự có mặt của nhiều quốc gia tham dự. Mặt khác, lợi ích của nhiều quốc gia trong hoạt động trên biển còn khác nhau, đến nỗi không thể thực hiện được các thỏa thuận mang tính chất đa phương.
Các hoạt động ngầm dưới nước của tàu ngầm bị loại ra khỏi những thỏa thuận về biến cố trên biển hiện hành có liên quan đến hải quân của một số cường quốc, nhưng trong bối cảnh hiện nay, cần xem xét việc đưa chúng vào bất cứ một thỏa thuận khu vực nào nhằm tăng cường xây dựng lòng tin. Đối với sự hoạt động an toàn dưới mặt nước của tàu ngầm sẽ là một mối quan tâm đặc biệt và có thể cần phải xem xét đến việc thiết lập một cơ quan tư vấn về hoạt động cho tàu ngầm trong khu vực Biển Đông tiến hành theo trình tự thủ tục mà hiện nay đang được hải quân NATO và hải quân các nước Tây Âu khác áp dụng, đó là cơ chế thông báo thông tin về sự hoạt động của tàu ngầm, thời gian, khu vực và mục đích hoạt động. Hiện nay, cơ quan loại này của Mỹ và đồng minh được đặt tại Yokosuka, Nhật Bản.
4. Các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển và luật biển quốc tế
Các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển có liên quan mật thiết quan trọng đến luật biển vì tất cả các quốc gia trong khu vực Biển Đông đều có mối quan tâm riêng đối với luật biển. Trên 160 quốc gia đã ký Công ước năm 1982 của LHQ về Luật biển, trong khu vực Biển Đông, Philippines và Indonesia là những quốc gia quần đảo cũng đã phê chuẩn Công ước năm 1982 nhằm cố gắng hết sức để có được lợi ích mở rộng vùng biển do Công ước năm 1982 mang lại.
Các chế độ về quyền qua lại eo biển, về vùng đặc quyền kinh tế và quốc gia quần đảo rất quan trọng ở khu vực Biển Đông. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực tồn tại những điều bất ổn nhiều nhất về các khía cạnh giao thông hàng hải của luật biển. Ví dụ, những vấn đề chưa được giải quyết như tranh chấp chủ quyền về biển, đảo có liên quan đến các khía cạnh hàng hải quốc tế của luật biển đã được xác định như sau:
Một là,quyền qua lại vô hại của tàu hải quân, cảnh sát biển qua vùng lãnh hải, trong một phạm vi hẹp hơn là quyền qua lại các eo biển quốc tế và các tuyến đường biển quần đảo đi qua các vùng nước của quốc gia quần đảo, và đặc biệt là liệu sự qua lại đó có phải là đối tượng sự thông báo trước cho họ, hay thậm chí là phải được họ cho phép trước hay không.
Hai là,bản chất của chế độ tài phán có thể áp dụng cho vùng đặc quyền kinh tế đã được UNCLOS gọi là chế độ riêng, và sự liên quan của nó tới tự do hàng hải quốc tế, đặc biệt là đối với các tàu hải quân, cảnh sát biển.
Ba là,sự cân bằng về quyền của các quốc gia sử dụng trong vùng nước quần đảo, và đặc biệt là mối quan hệ giữa quyền qua lại hạn chế các tuyến đường biển quần đảo với quyền qua lại vô hại trong các vùng nước quần đảo, khả năng áp dụng các quy chuẩn của UNCLOS như là luật thông lệ quốc tế, đặc biệt là mức độ mà các quốc gia ngoài hiệp định có thể yêu cầu được hưởng một số lợi ích của một số quyền mới do UNCLOS lập ra, đặc biệt là quyền qua lại các eo biển quốc tế và các tuyến đường biển quần đảo.
Những điều này có thể sẽ lại xuất hiện trong phạm vi của một vài biện pháp xây dựng lòng tin trên biển có thể được xem xét để áp dụng cho khu vực Biển Đông trong bối cảnh hiện nay.
Một lý do khác cho thấy, trong hệ thống luật biển quốc tế hiện đại, các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển rất quan trọng, vì cách nhìn đối với luật biển trong khu vực Biển Đông có phần khác nhau giữa các quốc gia có yêu sách chủ quyền. Có thể thấy, khi người Bắc Mỹ hoặc người châu Âu nói về các vấn đề của luật biển thì cách nhìn của họ dường như là bao gồm tất cả các quốc gia ven biển với một vùng duyên hải có giới hạn (lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế) được bao quanh bởi các vùng biển quốc tế rộng lớn. Trọng tâm của họ là hải phận quốc tế đó là sự quan tâm hàng đầu.
Tại khu vực Biển Đông trọng tâm của các quốc gia có phần hơi khác và tùy theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà trọng tâm của các quốc gia có phần khác nhau, trong đó tự do trên biển tỏ ra tương đối ít quan trọng. Tuy nhiên, bước vào thập niên đầu của thể kỷ XXI đã có sự điều chỉnh về chiến lược quốc gia về biển của các quốc gia xung quanh Biển Đông. Điều đó có thể được gọi là cách nhìn từ trong ra ngoài. Phần lớn sự quan tâm được tập trung vào quyền của các quốc gia ven biển về vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của họ, đặc biệt là các vùng nước quần đảo và vùng đặc quyền kinh tế. Lý do của sự khác biệt trọng tâm có thể thấy được từ bản đồ của khu vực Biển Đông, Với các vùng nước quần đảo liền sát nhau và các vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý vẽ quanh các quốc gia ven biển và các hòn đảo thì chỉ còn tương đối ít vùng lãnh hải quốc tế theo đúng nghĩa của nó.
Nhưng thực tế đã chứng minh, khi biện pháp xây dựng lòng tin trên biển hòa hợp với luật biển quốc tế hiện đại, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982, thì chúng không ngăn cản tự do hoạt động của các lực lượng hải quân, cảnh sát biển của các nước trong vùng biển quốc tế. Vì còn có những cách nhìn khác nhau về luật biển và cho đến nay hầu hết các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển ra đời tương đối chậm so với các khu vực khác trên thế giới đối với các quốc gia ven bờ Biển Đông, và các biện pháp xây dựng lòng tin được áp dụng là không dễ dàng, đòi hỏi phải có thời gian để các quốc gia tiếp cận.
Ngay giai đoạn từ năm 1984 - 1985 theo đề nghị của Tổng thư ký LHQ, một nhóm các chuyên gia đã tiến hành một công trình nghiên cứu toàn diện về cuộc chạy đua vũ trang trên biển, với ý định phân tích những mối quan hệ về an ninh trên biển quốc tế, tự do trên vùng biển quốc tế, về các tuyến đường biển quốc tế và về việc khai thác các nguồn tài nguyên biển. Nghiên cứu này đã góp phần xác định các vùng biển có khả năng tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển và việc giải quyết các bất đồng về chủ quyền biển đảo. Công trình nghiên cứu đặc biệt lo ngại trước việc luật biển quốc tế hiện đại, luật về chiến tranh hải quân và các hiệp định về kiểm soát vũ khí, đặc biệt là Hiệp ước Kiểm soát vũ khí dưới đáy biển không có sự hài hòa với nhau. Luật biển là một bộ phận của luật quốc tế quan tâm đến cả các vùng nước quần đảo, các vùng đặc quyền kinh tế, việc qua lại các eo biển... Trong khi một số luật về chiến tranh hải quân đã được dự thảo từ nhiều năm trước và không phản ánh được những sự phát triển to lớn của kỹ thuật của lực lượng hải quân trong những thập kỷ gần đây.
Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, tư tưởng về sử dụng biển một cách hòa bình là tư tưởng được quy định trong UNCLOS, cả với tư cách là một nguyên tắc chung (Điều 301) lẫn trong quan hệ với vùng biển quốc tế (Điều 88), với vùng đặc quyền kinh tế (Điều 58), với vùng đáy biển quốc tế (Điều 141), kể cả những trạm đặc biệt được xây dựng trong vùng này (Điều 147), và với nghiên cứu khoa học biển (Điều 240).
Sau khi LHQ công bố công trình nghiên cứu nói trên thì một số học giả đã mở rộng nghiên cứu sang các mối quan hệ của luật biển và các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển. Trong bối cảnh hiện nay, một số học giả đã coi UNCLOS là nền tảng luật biển quốc tế hiện đại để dựa vào đó xây dựng các sáng kiến về kiểm soát vũ khí trong tương lai. Tuy nhiên, những quan điểm khác thì thận trọng hơn, một số quan điểm của các học giả trong khu vực Biển Đông đã lập luận rằng, một chế độ xây dựng lòng tin dựa trên các điều khoản riêng biệt của Công ước về luật biển năm 1982 sẽ dẫn đến một loạt khó khăn về cả pháp lý lẫn chiến lược theo nghĩa rộng nhất của ngôn từ. Mối lo lắng đó là các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển có thể thiết lập một dạng “quyền tài phán đáng sợ”, mà hiệu lực trên hết là các quốc gia ven biển sẽ tăng được quyền kiểm soát đối với các vùng nước phụ cận và hạn chế quyền qua lại của các tàu chiến nước ngoài đến hoạt động trong các vùng nước lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.
Các mối quan ngại của các quốc gia trong khu vực Biển Đông do các hành động đơn phương gây bất ổn tình hình khu vực Biển Đông có thể được giải quyết bằng biện pháp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực thông qua các thỏa thuận tuần tra chung, nghiên cứu khoa học biển chung, phối hợp đấu tranh chống cướp biển, cướp có vũ trang. Các biện pháp này có thể được chấp nhận khi và chỉ khi áp dụng cho vùng biển có sự tranh chấp thật sự, trừ khi phải thừa nhận rằng các vùng đặc quyền kinh tế cũng cấu thành “các vùng biển quốc tế” vì mục đích đó. Mặt khác, các quốc gia ven biển trên thế giới và trong khu vực, ít nhất là ban đầu, có thể sẽ không tán thành các biện pháp áp dụng cho những vùng nước nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, hoặc các vùng nước quần đảo của các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo, cho dù thực tế là chủ quyền của họ đối với hai khu vực đặc quyền kinh tế và lãnh hải bị hạn chế bởi quyền qua lại vô hại, bởi quyền qua lại eo biển và qua lại trên các đường biển quần đảo theo quy định của Công ước 1982.
Khu vực Biển Đông có thể thích hợp cho chế độ an toàn và kiểm soát hàng hải, các quốc gia trong khu vực Biển Đông có vùng lãnh hải rộng lớn do lợi ích của Công ước 1982 mang lại. Khu vực Biển Đông bao quát các tuyến đường biển chiến lược sống còn và các “điểm nút cổ chai” giữa châu Á và Bắc Australia. Khó khăn đối với vùng này là nó có thể bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong khu vực Biển Đông đang là mục tiêu tranh chấp về chủ quyền của nhiều quốc gia xung quanh khu vực Biển Đông. Về quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hiện nay Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép, quần đảo Hoàng Sa hiện nay là nơi tranh chấp giữa 5 nước 6 bên. Trong quá trình giải quyết tranh chấp trước tiên các quốc gia cần phải có sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau thông qua các biện pháp xây dựng lòng tin, tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quôc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982.
Kết luận
Hiện tại chưa thể đưa ra được những câu trả lời rõ ràng cho những vấn đề đã được nêu lên, nghiên cứu chỉ đưa ra những cách thức tiếp cận nhằm xây dựng lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông, đặc biệt là thông qua các thỏa thuận về phối hợp hoạt động như: trao đổi thông tin, tuần tra chung và diễn tập của các lực lượng hải quân, cảnh sát biển và phối hợp kiểm soát an toàn hàng hải. Các vấn đề liên quan đều rất phức tạp và còn có nhiều lĩnh vực liên quan đến nhiều lợi ích và mâu thuẫn lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Bởi vậy, các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần phải xem xét tất cả các nhân tố về chiến thuật, chiến lược và chính trị cùng với các nhân tố nảy sinh từ luật biển quốc tế hiện đại và từ việc áp dụng luật biển của các quốc gia trong khu vực Biển Đông.
Nhưng đã có một nhu cầu ngày càng tăng đối với các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển trong khu vực Biển Đông, cho nên các quốc gia hữu quan cần tiến hành các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực về vấn đề này. Một cách có thể làm được điều này là bắt đầu bằng vài cuộc thảo luận giữa các lực lượng hải quân, cảnh sát biển của các quốc gia trong khu vực về khía cạnh chiến thuật của các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển. Các nội dung để thảo luận là những vấn đề mà thực tiễn yêu cầu nhằm giảm bớt nguy cơ xung đột tại Biển Đông và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau như: hợp tác trong việc kiểm soát hàng hải, tuần tra chung, thao lược diễn tập, hợp tác bảo vệ vận tải biển, nghiên cứu khoa học biển chung... Một biện pháp xây dựng lòng tin trên biển khả dĩ là khởi xướng một cuộc đối thoại với mục đích đạt đến sự hiểu biết chung để phối hợp hoạt động trong khu vực, những khía cạnh trên vẫn chưa được các quốc gia trong khu vực Biển Đông thực hiện một cách có hiệu quả./.








