Không ít Phật tử, đạo sĩ ở Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 đã không thoả mãn với tình trạng trống vắng tư tưởng, đạo pháp suy vi. Vì thế Werner cho rằng: “Quả thật, trong một mức độ nào đó đạo Cao Đài có thể được coi là một nỗ lực nhằm trả lại sinh lực cho đạo Phật – các thầy tu đứng đầu trong đạo Phật, Lão và các chi Minh (Minh sư, Minh đường…) đã quy tụ về đạo Cao Đài khi đạo này mới được thành lập. Trước khi các thánh thất được xây dựng, những người khai đạo Cao Đài cũng dùng các chùa Phật để hành lễ khắp cả Nam Kỳ, và một số các hoà thượng chủ chùa ấy đã theo đạo Cao Đài. Trong các vùng ảnh hưởng của đạo Cao Đài, người ta biết rằng đông đảo phật tử chùa ấy đã nhập môn tập thể theo Cao Đài”(tr. 13) Tín đồ Cao Đài đông đảo khắp cả Nam Kỳlà có thật. Werner viết: “Đạo Cao Đài được thành lập ở Sài Gòn năm 1925 (…). Không lâu sau khi thành lập, tôn giáo mới này đã có được đông đảo tín đồ ở khắp cả Nam Kỳ. Vào khoảng năm 1930, có từ năm trăm ngàn tới một triệu nông dân theo Đạo, trong lúc tổng số dân là bốn tới bốn triệu rưỡi.” (tr. 4) “Đạo Cao Đài là phong trào quần chúng rộng lớn xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ…”(tr. 15)
Về nguồn gốc số liệu trên, Werner viết: “Số ước lượng tín đồ Cao Đài do Thống đốc Nam Kỳ cho biết, trong một báo cáo gởi Toàn quyền Đông Dương ngày 14.12.1934. Hồ sơ riêng của Thống đốc Pagès.”(tr. 72, chú thích 1 cho Chương I)
Werner cho rằng: “Việc dân chúng nhập môn Cao Đài ở quy mô lớn rất có thể liên quan tới vấn đề to tát hơn là sự thay đổi hệ tư tưởng.” (tr. 11) “Hệ tư tưởng Cao Đài hiển nhiên là một yếu tố quan trọng để Đạo thu hút mau lẹ tín đồ.”(tr. 11)
Do đâu hệ tư tưởng Cao Đàicó được sự thu hút đó? Theo Werner, “Về mặt tổ chức, dù đạo Cao Đài đánh dấu một sự thoát ly khỏi tập quán tu hành của Việt Nam khi xưa, hệ tư tưởng Cao Đài đã rút tỉa ra rất nhiều từ truyền thống và tín ngưỡng Tam giáo rất phổ biến trong xã hội Việt Nam nói chung.”(tr. 8)
“Hệ tư tưởng Cao Đài hiển nhiên là một yếu tố quan trọng trong sự xuất hiện của tôn giáo này. (…) Đạo Cao Đài có được một điều gì đó dành cho mọi người. Sự khéo léo tổng hợp truyền thống Tam giáo và sự diễn giải minh bạch, chính xác truyền thống Tam giáo không những tạo ra sức hút văn hoá mãnh liệt mà còn lôi cuốn được phong trào kháng (Pháp) gắn liền với truyền thống này và hãy vẫn còn sinh lực. (…) Nền cai trị của Pháp nghèo nàn về ý thức hệ, cùng với hoàn cảnh kinh tế và xã hội tuyệt vọng, đã tạo ra một môi trường văn hoá thuận lợi cho đạo Cao Đài.”(tr. 56)
Ngoài Tam giáo, đạo Cao Đài còn thờ Trời, và giáo chủ Cao Đài là Thượng đế. Nhưng Thượng đế trong Cao Đài có khác gì quan niệm về Thượng đế theo truyền thống của tín ngưỡng Á Đông? Theo Werner, “Việc thờ kính các đấng thiêng liêng trong đạo Cao Đài phản ánh các đức tin và quan niệm của quần chúng, ngoại trừ việc tôn thờ đức Giáo chủ. Đạo Cao Đài có quan niệm mới mẻ về Thượng đế. Mặc dù đức Cao Đài được coi là Ngọc Hoàng Thượng đế, một đấng quen thuộc trong truyền thống dân gian Việt Nam, nhưng vai trò và vị trí của Thượng đế đã đổi khác trong tín ngưỡng Cao Đài. Thượng đế được tôn lên ở vị trí trung tâm của Đạo và tín đồ thường quen gọi là đức Chí tôn (…). Thượng đế không được coi là một đấng thiêng liêng trong số các đấng thiêng liêng, mà đúng hơn Ngài được coi là hình ảnh một người Cha quyền uy và thấy hết tất cả. Vai trò của Thượng đế trong đạo Cao Đài khác hẳn tập quán tín ngưỡng của người Việt Nam trước kia vì lẽ Ngài có được tính toàn tri, toàn năng. Điều này có ý nghĩa tác động tới hành vi của tín đồ Cao Đài vì họ sùng kính tôn thờ Trời với tri thức rằngTrời có ở mọi lúc, mọi nơi.” (tr. 9)
Cùng lúc với đà phát triển nhanh số tín đồ ở Nam Kỳ, đạo Cao Đài cũng là một tôn giáo được tổ chức tốt và thành côngWerner đánh giá: “[Đạo Cao Đài là] một phong trào nông dân lớn nhất Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Xuất hiện khoảng năm 1925 ở miền Nam Việt Nam (Nam Kỳ thuộc Pháp), đạo Cao Đài (cho tới những năm 1950) đã thu hút tín đồ nhiều hơn bất kỳ các nhóm nông dân nào khác ở miền Nam. (…) đạo Cao Đài đã có được ảnh hưởng đáng kể đối với nền chính trị miền Nam trong hơn nửa thế kỷ. Thực vậy, trong số ba phong trào quần chúng lớn ở miền Nam thời Pháp thuộc, đạo Cao Đài được tổ chức tốt nhất và thành công nhất.”(tr. 1)
Tính tổ chức của đạo Cao Đài thể hiện qua Hội thánh Cao Đài. Werner lập luận: “Hội thánh Cao Đài cũng được tổ chức quy củ, khác hẳn với cách tu hành đang phổ biến ở Việt Nam lúc bấy giờ. Dù rằng ở miền Nam đã có các giáo phái nhỏ thực hành bí giáo huyền môn và sử dụng đồng tử, những đạo giáo ấy đã không cho thấy mức độ tổ chức ngang tầm với đạo Cao Đài, cũng như không có được đông đảo tín đồ như đạo Cao Đài. Mỗi cấp chức sắc Cao Đài đều có được một chức năng nhiệm vụ riêng biệt và được quy định minh bạch, mà từng phương diện của chức năng nhiệm vụ ấy đều có một ý nghĩa biểu trưng.” (tr. 7)
“Đạo Cao Đài có thể thu hút đông đảo quần chúng đích xác vì sự tổ chức vững vàng của Đạo. Hơn nữa, cách tổ chức hàng giáo phẩm chức sắc của Đạo củng cố cho Đạo vững mạnh, mà đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đạo Cao Đài tiếp tục hiện hữu ngày nay.”(tr. 63)
Có thể bà tiến sĩ Werner chưa minh hoạ đầy đủ về mối quan hệ giữa bối cảnh xã hội Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 với sự ra đời và phát triển mau lẹ của đạo Cao Đài thời bấy giờ. Tuy nhiên, những ý kiến trên đây của bà, trong một chừng mức nhất định, vẫn có giá trị tham khảo để nghiên cứu sự ra đời một nền tôn giáo bản địa Việt Nam.
-----------
(1) Werner còn là tác giả nhiều bài báo về Việt Nam, và đã cùng với David G. Marr chủ biên quyển Tradition and Revolution in Viet Nam (Truyền thống và cách mạng ở Việt Nam)…
Nguồn: Xưa và Nay, số 81B tháng 11 năm 2000