Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 04/06/2012 20:28 (GMT+7)

Biển Đông – Lịch sử địa chính trị và luật pháp quốc tế

1. Phương pháp tiếp cận mới đối với vấn đề Biển Đông(Đặng Đình Quý, Quyền Giám đốc Học viện Ngoại giao; Chủ nhiệm Chương trình Nghiên cứu Biển Đông)

Trong hơn 2 năm qua, tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến mới. Cùng với những diễn biến mới này, các nước liên quan trực tiếp đến tranh chấp đều thực hiện nhiều biện pháp như tăng cường sự hiện diện trên thực địa, củng cố cơ sở lịch sử, pháp lý; tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế thông qua các kênh ngoại giao. Những diễn biến trong 2 năm nay làm thế giới ngày càng quan tâm hơn tới việc gìn giữ an ninh, ổn định và thịnh vượng ở Biển Đông và khu vực Đông Nam Á. Không chỉ có Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc và Nga mà nhiều nước khác ngày càng quan tâm tới Biển Đông.

Sau ARF 17, một số học giả nước ngoài đánh giá rằng, tình hình Biển Đông đã chuyển sang một giai đoạn mới, do đó, các bên liên quan cần phải có tư duy mới và phương pháp tiếp cận mới đối với vấn đề Biển Đông.

Với Việt Nam, có thể nói, trong 2 năm qua, Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng trong tư duy, chính sách và các biện pháp bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ ổn định tình hình Biển Đông. Tiến sĩ Ian Storey thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore đã từng nhận định rằng, chính sách Biển Đông của Việt Nam hơn 2 năm qua là tổ hợp các hướng: Đàm phán song phương với Trung Quốc; khu vực hóa thông qua thúc đẩy ASEAN trong vấn đề DOC và Biển Đông; quốc tế hóa vấn đề bao gồm tạo đan xen lợi ích quốc tế, nộp báo cáo ranh giới ngoài thềm lục địa và tổ chức hội thảo khoa học quốc tế; hiện đại hóa quân đội nhằm hỗ trợ cho ngoại giao...

Trong những chuyển biến quan trọng đó, lực lượng nghiên cứu về Biển Đông đã có những đóng góp quan trọng, kêu gọi gìn giữ hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực, tuân thủ luật pháp quốc tế, đồng thời phản bác yêu sách phi lý của các bên, qua đó tác động tới tư duy chính sách của các nước liên quan. Sau Hội thảo Biển Đông lần thứ nhất, còn nhiều ý kiến từ các bên liên quan trực tiếp tới tranh chấp, phê phán Hội thảo và đưa ra nhiều quan điểm cực đoan. Sau Hội thảo lần thứ hai, không có ý kiến cực đoan như vậy mà số bài viết về Biển Đông tăng lên gấp bội. Số người nói công khai về những vấn đề xảy ra tại khu vực này cũng tăng lên gấp nhiều lần.

Nếu như trước năm 2008, hàng năm ở khu vực Đông Nam Á chỉ có Hội thảo kiểm soát xung đột ở Biển Đông ở Indonesia và một số ít hội thảo nhưng chỉ nói về hợp tác thì trong năm 2009 - 2010, số hội thảo về Biển Đông tăng nhanh. Nội dung hội thảo ngày càng đi vào thực chất và được nhìn từ nhiều khía cạnh, cả lịch sử, pháp lý, quan hệ quốc tế và các khía cạnh khác nhau. Ngoài ý nghĩa về tham mưu chính sách, các hội thảo này là hoạt động quan trọng để thông tin về tình hình diễn ra trên Biển Đông, cập nhật và phân tích các sự kiện xảy ra trên Biển Đông, hành động của các bên liên quan được phân tích một cách khoa học trước công luận...

Tình hình Biển Đông nhiều khả năng tiếp tục diễn biến phức tạp. Vì thế, lực lượng nghiên cứu Biển Đông cần tiếp tục gia tăng các hoạt động trao đổi học thuật; đẩy mạnh nghiên cứu toàn diện về Biển Đông, gồm cả chiến lược, chính sách Biển Đông của các bên liên quan; tăng cường vận động học giả, các nhân vật có ảnh hưởng tới quá trình hoạch định chính sách của các bên liên quan, các nước lớn, các nước có lợi ích quan trọng ở Biển Đông; tuyên truyền rộng rãi giới học giả và truyền thông quốc tế lập trường chính nghĩa, chính sách nhất quán và cách ứng xử có trách nhiệm của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông.

2. Tư liệu lịch sử về chủ quyền ở cấp cao nhất(Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã - Hội Lịch sử Việt Nam)

Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được minh chứng bằng những tư liệu lịch sử không chỉ của Việt Nam, mà còn của chính Trung Hoa cũng như của phương Tây, đồng thời bằng quá trình chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục của các nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử từ đầu thế kỷ XVII sang thế kỷ XIX.

Hầu hết các tư liệu của Việt Nam đều là tư liệu thuộc nhà nước, đặc biệt là Hội điển, loại sách ghi điển chế biến thành luật lệ của triều đình hoặc các châu bản, tức là những văn bản trao đổi giữa vua và các đình thần hoặc tỉnh thần, đều trực tiếp minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tư liệu Việt Nam đã đề cập đến địa danh Hoàng Sa, tiếng Nôm cùng nghĩa gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng, lại nhất quán từ đầu thế kỷ XVII, tức từ thời chúa Nguyễn đến thế kỷ XX. Địa danh Hoàng Sa hoặc chữ Nôm là Cát Vàng đã được người phương Tây xác nhận là Paracel vào thế kỷ XIX.

Các tài liệu chính thức của nhà nước Việt Nam, của triều đình Việt Nam như: Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Châu Bản Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí đã ghi nhận rất rõ ràng rằng, hoàng đế Việt Nam, triều đình Việt Nam luôn khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về cương vực mặt biển Việt Nam.

Đặc biệt, việc xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa lại còn do sách của chính người Trung Hoa viết như Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, viết năm 1969. Đó là chưa kể nhiều tác giả Tây phương như Le Poivre (1749), J Chaigneau (1816 - 1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)... cũng đã khẳng định rõ ràng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Không chỉ là những chứng cứ cụ thể, việc quản lý hành chính của các chính quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng rất rõ ràng. Suốt thời chúa Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một, luôn luôn được quản lý hành chính bởi Thừa Tuyên Quảng Nam dưới danh nghĩa nhà Lê hay Quảng Nghĩa (hay Quảng Ngãi), lúc là phủ, khi là trấn trong thực tế tự trị của xứ Đàng Trong, tùy theo từng thời kỳ lịch sử.

Sang thời kỳ Pháp thuộc, Pháp đã có hành động xác lập chủ quyền và thực thi chủ quyền. Tuy nhiên, đến ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa.

Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia nhóm họp từ ngày 5/9 đến ngày 8/9 năm 1951 có đưa ra 13 khoản tu chính, trong đó có việc Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn dưới phía Nam, đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Trong khi đó, tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam của Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại thân Pháp tại Hội nghị đã không có bình luận nào. Điều này cũng là cơ sở pháp lý quốc tế về chủ quyền vốn có của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Sau đó, tình hình chính trị thế giới bắt đầu chuyển biến, tranh chấp tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng phức tạp, khiến sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn vì nhiều thế lực quốc tế can thiệp với những danh nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Vì vậy, những chứng cớ khoa học trên phản bác những luận điểm của Trung Quốc từ năm 1909 cho rằng “Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ và chủ quyền ở Tây Sa và Nam Sa thuộc về Trung Quốc là bất khả tranh nghị.”

3. Cuộc chiến pháp lý trong phân định các vùng biển(PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, ĐHQG Hà Nội)

Thời gian gần đây vấn đề Biển Đông lại nóng lên bởi cuộc chiến pháp lý về “đường lưỡi bò”. Cuộc chiến này càng trở nên gay gắt ngay khi Indonesia, nước không có tranh chấp ở Biển Đông gửi công hàm kết luận bản đồ đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc là không có căn cứ pháp lý quốc tế và đi ngược lại các quy định của Công ước Luật biển năm 1982.

Mọi tranh chấp đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, đặc biệt theo tinh thần Công ước Luật biển 1982. Theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982 thì vùng nước quần đảo là vùng biển nằm bên trong của đường cơ sở quần đảo dùng để tính chiều rộng lãnh hải và do quốc gia quần đảo ấn định. Quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác.

Trong quá trình hoạch định không gian ở Biển Đông, liên quan đến hiệu lực các vùng đảo đang tranh chấp hiện nay, Việt Nam cần đảm bảo các yêu cầu pháp lý: Thứ nhất, khẳng định các đảo ở hai vùng Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam, tuy nhiên thực tế đang có nhiều nước tranh chấp chủ quyền với Việt Nam; Thứ hai, khẳng định các vùng đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có lãnh hải rộng 13 hải lý bao quanh, không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Các đá, bãi nửa nổi nửa chìm độc lập không nằm trong phạm vi 12 hải lý của một đảo thì không được sử dụng làm điểm cơ sở để vạch lãnh hải và không có vùng biển bao quanh hoặc có thể có vành đai ngoài 500 m...; Thứ ba, không xác định “đường cơ sở quần đảo” cho từng vùng đảo như phía Trung Quốc đã làm đối với vùng đảo Hoàng Sa để từ đó đòi hỏi tiếp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa vùng đảo vì trái với luật pháp quốc tế...

Từ trước đến nay, Việt Nam vẫn luôn khẳng định và có đầy đủ căn cứ lịch sử, căn cứ khoa học, căn cứ pháp lý để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Như vậy, các nước tranh chấp Biển Đông phải đưa ra bằng chứng khoa học, pháp lý để chứng minh cho yêu sách của mình, chứng minh hai vùng đảo này nằm trên thềm lục địa kéo dài của mình. Nếu đúng hai quần đảo này nằm trên thềm lục địa của các nước tranh chấp cùng Việt Nam thì các bên phải thực hiện bước phân định thềm lục địa dựa trên tinh thần của Công ước Luật biển 1982, đặc biệt là Điều 83 của Công ước nói trên.

4. Cần nhiều chuyên gia về luật quốc tế(Hoàng Việt, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh)

Cuộc tranh chấp tại Biển Đông về mặt pháp lý chủ yếu xoay quanh những tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các khu vực trên Biển Đông. Diễn biến về cuộc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông có thể chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất kéo dài tới trước năm 1974, giai đoạn thứ hai từ 1974 - 1999, giai đoạn thứ ba từ năm 1999 đến nay. Các yêu sách của các quốc gia liên quan trong cuộc tranh chấp Biển Đông có thể được chia thành hai loại: Loại thứ nhất là các yêu sách về chủ quyền các đảo trên Biển Đông, đặc biệt là quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; loại thứ hai là sự kéo dài của các quyền của các quốc gia ven biển được diễn giải dưới các quy định của Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982.

Trên nguyên tắc, các vấn đề tranh chấp lãnh thổ có thể được giải quyết theo các quy định của luật pháp quốc tế. Các cơ chế tài phán áp dụng đối với việc thụ đắc lãnh thổ và phân định thềm lục địa cũng như ranh giới giữa các khu đặc quyền kinh tế trên biển đã có những bước tiến nhất định, như một số vụ đã giải quyết của Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) hoặc các vụ phân xử của các tòa án trọng tài quốc tế trong suốt 40 năm qua. Tuy nhiên, các cơ chế tài phán của luật quốc tế sẽ ít có hiệu lực nếu như các quốc gia tranh chấp không sẵn sàng cho việc giải quyết tranh chấp ấy thông qua con đường tài phán quốc tế. Ngoài ra, đối với những quy định của luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ biển, vẫn còn những vướng mắc, tồn tại như các vấn đề liên quan đến thụ đắc chủ quyền lãnh thổ, liên quan đến yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông và quy chế pháp lý đối với những cấu trúc địa chất thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tranh chấp Biển Đông hiện nay đang là một điểm nóng với sự chạy đua vũ trang của các quốc gia tranh chấp và liên quan. Các tranh chấp diễn ra gần đây đã đe dọa đến tình hình an ninh, hòa bình, hợp tác và phát triển toàn khu vực. Đã có những tranh chấp lãnh thổ biển giữa các quốc gia trên thế giới được giải quyết thông qua con đường tòa án hoặc thương lượng trực tiếp giữa các bên. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế còn tồn tại nhiều “khoảng trống”, vì vậy, để giải quyết tranh chấp này, không thể không làm rõ những vấn đề đó.

Trước đây, Trung Quốc không quan tâm nhiều đến luật quốc tế. Cho đến khi Trung Quốc bắt đầu trở thành thành viên chính thức tại Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, Trung Quốc đã đóng vai trò nhất định đối với các định chế tài chính quốc tế. Trung Quốc đã sử dụng đội ngũ học giả nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông ở nhiều lĩnh vực nhằm tuyên truyền, phổ biến tới cộng đồng quốc tế. Thống kê của Viện Nghiên cứu Trung Quốc (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) cho thấy, những năm gần đây, số lượng các luận án tiến sĩ liên quan đến tranh chấp Biển Đông ở Trung Quốc đã tăng lên đáng kể. Trong khi đó, số lượng các nghiên cứu liên quan đến tranh chấp Biển Đông của các tác giả Việt Nam rất ít về số lượng và phần lớn trong số đó chưa cao về chất lượng. Vì vậy, Việt Nam cần có chiến lược về con người cho nghiên cứu tranh chấp, đặc biệt là các chuyên gia về luật quốc tế liên quan đến tranh chấp lãnh thổ nói chung và tranh chấp biển nói riêng.

5. Mở rộng đối tượng tham gia COC Biển Đông(Nguyễn Thị Thanh Hà, Chuyên viên Liên hợp quốc)

Tầm quan trọng của Biển Đông đối với nền kinh tế, chính trị của nhiều quốc gia trên thế giới đã được khẳng định. Ý tưởng xây dựng một “bộ quy tắc ứng xử” (COC) riêng về Biển Đông ra đời từ năm 1996 và đến năm 2002 mới chính thức được các bên ký kết thông qua sau khi đã hạ xuống thành “bộ ứng xử quốc tế đối với Biển Đông” (DOC). DOC có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình, ổn định trong toàn khu vực. Tuy nhiên trên thực tế, DOC 2002 chậm được triển khai, không được các bên triệt để tuân thủ trong những năm gần đây. Nguyên nhân trước hết là do DOC là văn kiện nửa chính trị nửa pháp lý và không có giá trị ràng buộc và phạm vi quy định không rõ ràng. Hiệu lực của văn bản này phụ thuộc vào thiện chí thi hành của các bên. Nguyên nhân thứ hai là do một số quy định của DOC quá chung chung, dẫn đến việc mỗi quốc gia có sự “vận dụng” khác nhau. Nguyên nhân thứ ba là quy định của DOC 2002 về triển khai các biện pháp xây dựng lòng tin quá “lỏng lẻo”, chỉ dừng lại ở mức các bên “tìm kiếm cách thức” xây dựng lòng tin...

Trong tương lai việc xây dựng COC Biển Đông phải nhằm giải quyết những vấn đề trên Biển Đông dưới sự chấp thuận của các nước liên quan. Cũng giống DOC 2002, COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng, quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ pháp luật quốc tế.

COC cần mở rộng phạm vi áp dụng hơn so với DOC 2002, theo đó phạm vi phải mở rộng ra toàn bộ Biển Đông, không gói gọn ở 2 quần đảo đang xảy ra căng thẳng hiện nay. Nội dung của COC Biển Đông cần nhắc lại các nguyên tắc khung của DOC 2002. Ưu tiên cao nhất là loại trừ việc sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực để áp đặt các yêu sách hoặc giải quyết tranh chấp về lãnh thổ, vùng biển. Mọi hoạt động nghiên cứu, sử dụng, thăm dò, khai thác các vùng biển, kể cả thềm lục địa ở Biển Đông... phải tuân thủ các quy định của Công ước Luật biển 1982. Cần quy định rõ ràng những hành động các bên cam kết không triển khai ở các khu vực tranh chấp lãnh thổ cùng với cơ chế giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm. Ngoài ra cần quy định các lĩnh vực khuyến khích hợp tác trên Biển Đông như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an toàn hàng hải và viễn thông, tìm kiếm cứu nạn và chống tội phạm xuyên quốc gia... Ngoài ra, COC cần quy định hướng triển khai hợp tác. Chủ thể và đối tượng thực hiện COC Biển Đông không nên bó hẹp giữa 10 nước ASEAN và Trung Quốc. Việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như bảo đảm an ninh hàng hải qua vùng biển này có ý nghĩa to lớn đối với cả các quốc gia bên ngoài khu vực nên cần tính đến khả năng mở ra cho các quốc gia bên ngoài khu vực có nguyện vọng sử dụng Biển Đông tham gia COC.

Những gợi ý về mô hình của một COC Biển Đông này dựa trên góc độ tìm kiếm phương thức không để các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển ở Biển Đông đe dọa hòa bình, an ninh khu vực và cản trở các hoạt động sử dụng vùng biển một cách hòa bình, hợp pháp... Như vậy, COC Biển Đông không chỉ điều chỉnh hành vi ứng xử của các bên trực tiếp liên quan đến lãnh thổ, vùng biển ở Biển Đông mà phải điều chỉnh hành vi ứng xử của tất cả các bên tham gia sử dụng vùng biển này.

6. Xác định biện pháp phòng ngừa, ứng phó(Thiếu tướng, PGS. TS. Lê Văn Cương, Viện Chiến lược và Khoa học Công an)

Khu vực Biển Đông có vị trí quan trọng mang tính sống còn đối với các nước Đông Nam Á nói riêng, nhiều quốc gia trên thế giới nói chung, 5 trong số 10 con đường hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới đi qua Biển Đông. Mỗi ngày có khoảng 150 - 200 tàu biển các loại đi qua Biển Đông, trong đó 50% là tàu trọng tải trên 5.000 tấn, 10% tàu trọng tải trên 30.000 tấn. Hơn 90% hàng hóa, dịch vụ toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển và 45% số đó đi qua Biển Đông. Riêng đối với Nhật Bản, 70% dầu mỏ nhập khẩu và 45% hàng xuất khẩu của nước này đi qua Biển Đông. Với Trung Quốc, 60% hàng xuất khẩu và 70% dầu nhập khẩu đi qua Biển Đông... Điều này cho thấy Biển Đông có tầm quan trọng trong lưu thông hàng hóa quốc tế.

Có 4 nhân tố cơ bản hiện nay sẽ quyết định tình hình Biển Đông từ nay đến năm 2020. Cơ bản trong đó là thái độ và cách ứng xử, thế lực của các bên, mức độ can dự của bên thứ 3 và mức độ đồng thuận của các nước có cùng lợi ích ở Biển Đông. Dưới tác động của 4 nhân tố đó sẽ có 4 kịch bản cho diễn biến của Biển Đông ở các cấp độ khác nhau.

Dựa trên tình hình hiện nay chúng ta cần bám sát các giải pháp phòng ngừa và ứng phó như cần có nhận thức đúng đắn về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đó là không gian sinh tồn và phát triển của dân tộc và chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là “dĩ bất biến”. Chúng ta đã từng đưa ra phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “bốn tốt” nhưng cũng chỉ là “ứng vạn tốt biến” và thuộc phạm trù chiến lược, chính sách trong từng thời kỳ; sử dụng mọi phương tiện có thể để làm cho mọi người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước hiểu rõ chủ quyền trên Biển Đông. Người dân có quyền được biết những vấn đề lịch sử, cơ sở văn hóa liên quan đến chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông; chỉ đạo việc nhanh chóng nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, cơ bản về biển đảo, duy trì, thúc đẩy trao đổi song phương với các nước trong và ngoài khu vực những vấn đề liên quan đến Biển Đông, trao đổi hợp tác đa phương về Biển Đông./.


Xem Thêm

Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Lan tỏa thông điệp về sự sẻ chia, đồng cảm và tinh thần đoàn kết quốc tế giữa hai nước Việt Nam - Cuba
(Mặt trận) - Sáng 13/8, tại Hà Nội, ông Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu tại Lễ phát động cấp quốc gia Chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba với chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam - Cuba”.
Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Trung ương Hội ND Việt Nam Lương Quốc Đoàn gặp mặt Khối diễu hành “Nông dân Việt Nam”
(Mặt trận) - Sáng 12/8, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Gia Lâm - Hà Nội), ông Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã có buổi gặp mặt lực lượng Khối diễu hành "Nông dân Việt Nam" tại đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.
Tổng hội Y học Việt Nam: 70 năm xây dựng và phát triển
Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển, với sứ mệnh vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp tục đổi mới phương thức và nội dung hoạt động, Tổng hội Y học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vị trí, vai trò của Tổng hội được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển chung của ngành y tế và của đất nước.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến: Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy để phục vụ nhân dân tốt hơn, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc hơn
(Mặt trận) - Sáng 11/8, phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã khai mạc trọng thể tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Một trí thức Liên hiệp Hội tỉnh Bình Phước được Đồng Nai giữ lại tránh “chảy máu chất xám” trong sắp xếp bộ máy
Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai vừa có văn bản khẳng định ông Nguyễn Ngọc Vũ - Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bình Phước không thuộc diện giải quyết nghỉ việc theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP.
VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.