Bí ẩn về những thiên tài tự kỷ
Khả năng kỳ dị
Đần độn và không hề biết đến giá trị của từng đồng bạc, cuộc sống hàng ngày của Raymond là một cuộc sống đóng khung, ngăn nắp đến từng ly từng tí. Nếu có việc gì gây nên sự gián đoạn cho thói quen này thì sinh hoạt của cậu ta sẽ rối tung ca lên và làm cậu vô cùng sợ hãi. Thế nhưng cậu thiếu niên người Mỹ Raymond lại là một “thần bài” ở Las Vegas khi mới 15 tuổi. Trí nhớ tuyệt vời và khả năng tính toán giúp cậu có thể rút căn trong vài giây con số 2.130 hoặc có kết quả trong giây lát 5355 x 1235 = ? Và khi một hộp tăm xỉa răng bị đổ ra thì Raymond có thể nhẩm rất nhanh số tăm bị rơi đến từng con số. Câu chuyện kỳ quặc về cuộc đời Raymond đã dựng thành bộ phim nổi tiếng “Người Mưa” vào năm 1991.
Richad Wawro, người Scotland, cũng là trường hợp tương tự. Lên 3, Richard vẫn chưa biết nói và chỉ thét lên từng hồi chát chúa. Cậu hay giận giữ và chạy lung tung trong nhà, để rồi ngồi hàng giờ trước cây đàn dương cầm và ấn mãi một nốt nhạc. Với tính khí này, các bác sĩ chẩn đoán cậu là chậm phát triển với khuynh hướng tự kỷ. Nhưng dần dà, Richard bộc lộ khả năng phi thường trong hội hoạ. Lên 6, cậu vẽ tranh phong cảnh như thật, và đến năm 17 tuổi, Richard đã có cuộc triển lãm tranh đầu tiên tại London, để rồi sau đó, người ta đổ xô tìm mua những bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp của Richard với số lượng hàng nghìn bức. Ngay cả Giáo hoàng Paul II, cựu Thủ tướng Margaret Thacher cũng là khách hàng của Richard Wawro.
Leslie Lemke bị mù và khuyết tật về trí khôn, nhưng chỉ một lần được nghe bản Concerto số 1 dành cho piano của nghệ sĩ thiên tài người Nga Tchaikovxki vào năm 14 tuổi, Leslie đã chơi lại một cách hoàn hảo bản nhạc này khiến mọi người ngạc nhiên. Và với bất cứ bản nhạc nào cũng vậy, chỉ cần nghe qua một lần là Leslie có thể lặp lại chính xác tuyệt đối.
Kim Peek 51 tuổi, có đôi chân gầy tong teo và hai bàn tay mềm nhũn, trắng xanh, lạnh lẽo, khi tiếp khách, ông ngồi lọt thỏm trong ghế, thở hổn hển. Những phép nhân với 12 con số như được Kim Peek gọi ra từ đâu đó từ trong tiềm thức vậy. Ông có thể tính nhẩm các ngày trong tuần cho 4.000 năm và chưa bao giờ tính nhầm cả. Kim Peek nạp dữ liệu từ 14 lĩnh vực và nhớ được hầu hết những gì đã đọc: các sự kiện lịch sử, các tuyết xe buýt trên khắp nước Mỹ, Canada, mã số điện thoại, bưu điện, nhớ kết quả các trận bòng chày cách đây 40 năm, cả vị trí địa lý các thành phố châu Phi…. Khả năng kỳ diệu của Kim Peek bùng phát vào đêm Giáng sinh năm 1962, khi cậu bé 10 tuổi đột nhiên đọc cho mọi người trong nhà toàn bộ câu chuyện về lễ Giáng sinh trong Kinh thánh đúng từng câu, từng chữ. Kim đã học thuộc lòng câu chuyện rất dài đó trong những buổi lễ đi nhà thờ.
Christopher Taylor năm nay 40 tuổi và sống tại một thị trấn nhỏ bé ở Đông Bắc nước Anh. Tối tối anh lại đến uống một, hai cốc bia tại một cái quán nhỏ chỉ cách nhà anh 200 mét. Tuy nhiên, nếu không có người dẫn đường thì thể nào anh cũng đi lạc. Nhưng anh lại có thể nói, đọc và viết được tiếng Đan Mạch, Hà Lan, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hindi, Italy, Nauy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Nga, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thổ Nhĩ Kỳ…
Theo các nhà khoa học, cứ 10 người mắc căn bệnh thì xuất hiện 1 người có khả năng đặc biệt. Và trong số 100 người có khả năng đặc biệt được khoa học nhận diện từ trước đến nay, hiện trên thế giới chỉ còn sống không quá 25 người. Raymond, Richard, Wawro, Leslie Lemke, Kim Peek, Christopher Taylor là những trường hợp điển hình của những thiên tài tự kỷ, vô cảm, không ý thức được tài năng của mình…
“Công thức” thiên tài của người tự kỷ
Từ đâu mà những người tự kỷ có được khả năng phi thường? Giáo sư tâm lý Darold Treffert là một trong số 100 tiến sĩ giỏi nhất nước Mỹ, từ nhiều năm nay ông nghiên cứu, những tài năng bị thiểu năng trí tuệ và rút ra một kết luận: “ Một bộ não khoẻ mạnh có một cơ chế quản lý bộ nhớ, và cái gì cần thiết mới được cất giữ vào các ô. Người tự kỷ có lẽ không có bộ nhớ gồm các ngăn và cũng chẳng có cơ chế quản lý nó. Họ luôn sống trong “nhà kho” lưu trữ những gì mà họ nhớ được: con số, công thức toán học, tranh ảnh…”.
Stephen Wiltshire là một người sống như vậy. Mội ngày tháng 8 năm 2001, hai phóng viên BBC và một thanh niên da đen bay trên mọt chiếc máy bay lên thẳng để làm một thử nghiệm trên bầu trời London. Stephen Wiltshire là một chàng trai da đen thiểu năng trí tuệ 29 tuổi. Anh phải nhìn qua cửa sổ máy bay trong khi nó lượn một vòng qua khu nội thành London. Sau đó máy bay hạ cánh và trong 3 giờ anh dễ dàng vẽ lại từng chi tiết một khu vực rộng khoảng 10m2 của London nhìn từ trên trời xuống, nơi có 12 danh lam thắng cảnh nổi tiếng của London, hơn 200 toà nhà với cả những chi tiết như cửa sổ lâu đài, tháp canh, ống khói… Stephen Wiltshire không vẽ, mà “in” bức tranh từ bộ nhớ của anh ta.
Cũng như mọi người khác, những hình ảnh Stephen nhìn thấy được lưu trong vùng sau đầu trên diện tích khoảng 3-4 tỷ tế bào thần kinh. Điểm khác biệt giữa Stephen với những người bình thường là anh không chỉ nhìn một lần (khi máy bay bay qua) mà “nhìn thấy” mãi mãi (cả khi máy bay đã bay qua) những gì anh đã nạp vào bộ nhớ.
16 năm đi tìm công thức “thiên tài” của người tự kỷ, giáo sư Allan Snyder cho rằng, người bình thường chúng ta phải học từ họ, vì “họ”chỉ cho chúng ta thấy chúng ta thực sự là ai và có thể sẽ trở thành ai”. Cũng như ông, các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới trong các lĩnh vực sinh lý, sinh học thần kinh như Gerhard Roth hoặc Manfred Spitzer đều cho rằng, chiến lược của bộ não chỉ nhớ những sự kiện quan trọng đã hạn chế con người len lỏi được vào kho dữ liệu đầy ắp trong bộ não để khai thác những gì mà con người thực ra đã biết.
Vậy đâu là cầu nối giữa những thiên tài tự kỷ nhưng vô cảm, không ý thức được tài năng của mình với những thiên tài là người bình thường hoàn toàn ý thức được tài năng của mình và tại sao người bình thường lại không có được những khả năng của những người tự kỷ?
Cơ cấu trí nhớ của mọi người đều nằm trong vỏ bán cấu đại não gồm khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh và chúng tạo nên khoảng một tỷ tỷ điểm kết nối. Cái kho này có đủ chỗ cho mọi dữ liệu, cảnh vật, con số, sự kiện sảy ra từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Những hình ảnh đó có thể gọi ra được, nhưng được nạp dưới một chế độ nén lớn đến mức không thể lần mò đến chúng được. Để phân biệt những dữ liệu cần thiết cho cuộc sống với những dữ liệu không cần thiết, bộ não phải tiến hành các phương pháp nhắc lại, liên hệ kết nối và xác định giá trị cảm xúc để đánh dấu những dự liệu quan trọng. Lúc bình thường, không ai nhớ được tên người phi công đã lái chiếc máy bay chở mình trên chặng Frankfurt – New York cả. Nhưng nếu người phi công đó phải hạ cánh khẩn cấp, trên một núi băng chẳng hạn, thì sự kiện bất thường đó sẽ kích hoạt hàng nghìn tế bào thần kinh tạo các điểm kết nối mới và vì thế mỗi lần kể lại câu chuyện đó thì tên người phi công lại được gọi ra từ bộ nhớ. Bộ não sẽ duy trì mối liên kết sao cho đến khi về già người ta vẫn nhớ được câu chuyện và tên người phi công.
Giá trị xúc cảm là một chiến lược rất khôn khéo của bộ não. Việc gạn lọc các dữ liệu trí nhớ bảo đảm cho sự lựa chọn chính xác điều cần thiết, cho dù trữ lượng của “cái kho” trong bộ não to lớn một cách khủng khiếp. Nhưng mặt khác, cơ chế lọc này lại làm cho việc học của con người khá khó khăn. Nếu chế ngự được cơ chế lọc này theo nhu cầu thì mỗi người bình thường có thể trong chớp mắt học được tiếng Anh, dễ dàng chơi các bản nhạc của Chopin hoặc kích hoạt những tiềm năng còn ẩn giấu trong đầu. Rất tiếc là không thể làm thế được. Tuy nhiên, các nhà khoa học lại cho rằng: người bình thường có thể trở thành thiên tài ngôn ngữ nếu bộ não được kích hoạt một cách phù hợp.
Allan Snyder cùng với nhóm 6 nhà khoa học khác mới kết thúc một công trình nghiên cứu công phu về vấn đề này. Mục đích của công trình nhằm kìm hãm hoạt động của những kết nối điện thần kinh nhất định và thế vào đó là “giải phóng” những kết nối điện thần kinh khác, để qua đó thử nghiệm được các khả năng trí tuệ. Giáo sư Allan Snyder cho biết: “Khả năng sáng tạo của họ tăng 40%. Những người chịu tác động của nghiên cứu ít bị ảnh hưởng bởi lý trí và sự tính toán trong suy nghĩ. Họ suy nghĩ trong những luồng cố định. Họ có thể sử dụng nhiều hơn nguồn dữ liệu trong tiềm thức của họ. Trong một thời khắc, họ đã thành những người tự kỷ”.
Snyder mơ đến một thiết bị tạm gọi là “cái mũ suy nghĩ”, mà khi chụp nó lên đầu thì năng lực sáng tạo và khả năng học hành của con người sẽ được cải thiện. Ông thừa nhận rằng, nghe có vẻ như khoa học viễn tưởng nhưng 30 năm trước đây ai có thể tưởng tượng ra một thế giới Internet ngày nay.
Nguồn: Thế giới trong ta, số 243, 10/2005







