Bèo hoa dâu, chất phân xanh
Tục truyền vào thế kỷ 12, thời nhà Lý, sư ông Khổng Minh Không một hôm gánh bèo dâu đi ngang qua sông Hồng vô ý đánh rơi mấy bó. Những dân quanh vùng, ở các làng Búng, Bích Du, La Vân, tỉnh Thái Bình, ngày nay được xem như là "quê hương" bèo dâu, lượm về đem trồng làm phân bón ruộng, kết quả vô cùng mỹ mãn. Nhớ ơn nhà sư, từ thế kỷ 17 họ lập đền thờ phụng, ngày nay ở làng La Vân vẫn còn (7). Họ còn bán bèo qua các làng lân cận. Thấy vậy nhiều làng khác cũng muốn sản xuất nhưng không làm được. Có người nông dân cuốc bộ hơn trăm cây số để mua cho được một bó. Chủ nhân một nguồn lợi tức đem lại khá nhiều tiền, dân các làng may mắn này kiếm đủ mọi cách để giữ độc quyền. Các cô gái làng khác về làm dâu phải thề không tiết lộ cho bất cứ ai biết bí mật nuôi trồng. Còn các cô gái trong làng, nay mai sẽ đi làm dâu làng khác, thì không được phép biết một chút gì về kỹ thuật sản xuất. Hơn nữa, để tránh mọi hớ hênh, họ còn đặt bày ra một thần bèo rất nghiêm khắc, có quyền lực vật chết bất cứ ai tiết lộ bí mật nuôi trồng bèo (5).
Tuy nhiên, bí mật có giữ kín bao nhiêu rồi cũng có ngày bị phát giác. Câu chuyện bắt đầu với một sinh viên nông học trẻ tuổi, anh Nguyễn Công Tiễu, quê người Hưng Yên, cạnh Thái Bình. Năm 1921, anh lấy bèo dâu làm đề tài khảo cứu. Mất nhiều công của, thì giờ, cuối cùng anh biết được nguyên tắc phân bón của bèo dâu và qua năm 1929, đem trình bày kết quả ở Hội nghị Khoa học lần thứ 4 vùng Thái Bình Dương ở Java. Hơn nữa, như là phần thưởng dành cho người có chí, một nông dân làng La Vân, nơi có tiếng giữ gìn kín đáo bí mật nhất, lại kể cho anh nghe những chi tiết kỹ thuật nuôi trồng bèo dâu. Anh liền cho đăng ngay trên báo Khoa học(số 32,1932). Sách báo của nhà khoa học Nguyễn Công Tiễu (1)trên những đề tài dân dụng như dầu cà cuống, bèo hoa dâu ngày nay đã được phổ biến (5).
Cộng sinh bèo dâu-rong lam
![]() |
Nhìn từ trên (5))- Phóng đại 4 lần (5) |
![]() |
Azolla (5) |
![]() |
Anabaena (5) |
Cuộc cộng sinh thao diễn theo chu kỳ phát triển bèo dâu và rong lam. Khi lá bèo còn non, ở đỉnh lá đã thấy lơ thơ vài sợi rong tí hon nằm cạnh, chưa có dị bóng. Khi lá bèo lớn dần lên, những hốc nhỏ cũng dần dần được tạo ra trong lá để nắm giữ rong. Trong hốc, một số lông gồm có nhiều tế bào nhỏ, gây nên một sự cọ xát liên gục giữa bèo và rong. Những sợi rong cuốn lại thành cuộn, nhờ một màng chất dính bao bọc bên ngoài, bám vào thành hốc. Dị bóng thành hình, tăng số và lớn lên. Khi lá bèo đến độ trưởng thành, dị bóng đạt 30% (sau cùng có thể lên đến 45%) những tế bào ở sợi. Vào lúc này, rong lam chiếm toàn diện tích hốc, nhưng cũng là lúc nó bắt đầu chấm dứt phận sự tổng hợp quang học, không phát triển nữa và bước vào một trạng thái im lìm, bất động cho đến ngày lá bèo vàng úa rơi xuống đáy ruộng, thoái hoá, phân hủy để cống hiến chất đạm cho cây lúa.
Trong 30 năm gần đây, giới khoa học chú trọng nhiều đến bèo dâu và rong lam. Về măt cấu trúc, amin acid, protein (23)đã được xác định trong bèo, lectin trong rong, trong bèo. Trong số 18 amin acid tìm thấy, nhiều nhất là glutamic và aspartic acid, theo sau là leucin, ít nhất là methionin, tryptophan và cystein (19). Các amin acid giảm hạ trong bóng tối và môi trường nitrat NO 3, tăng gia với ánh sáng và môi trường ammonium NH 4. Rong chứa đựng chất sắc phycocyanin (12), allophycocyanin, phycoerythrocyanin (17,22)tương quan với hoạt động cố định chất đạm, caroten một nguồn provitamin A cho đồ ăn gia súc (27). Ngoài ra, bèo biết tổng hợp gibberellin, cytokinin như isopentenyl adenin, isopentenyl adenosine, cis- và trans-ribosyl zeatin, polyphenol, ferredoxin. Người ta biết phân tử ferredoxin mang thêm nguyên tố Mo là một trong hai protein cấu thành nitrogenase.
Từ lâu, ngay cả trước lúc người ta hiểu biết cơ chế cố định chất đạm, bèo dâu đã được dùng làm phân bón, nhưng chỉ ở một địa hạt giới hạn là Đông Nam Á, vùng ruộng lúa nước. Bên Trung Quốc, bèo dâu được trồng từ thế kỷ 17, đặc biệt ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông. Ở Việt Nam , người ta phỏng chừng bèo dâu đã có mặt từ nhiều thế kỷ hay lâu hơn nữa nếu tin ở huyền thoại. Thường người nông dân đi lượm bèo hoang ở ruộng, đem về trồng trong các ao sâu không quá 1m, đã dọn sạch từ mùa xuân trước và chứa toàn nước mưa. Các bờ ao phải được cào quét mọi rác rưởi, lắm lúc có hàng rào tre chống gió và ánh nắng gao gắt mùa hạ. Mẫu bèo được ươm trong các khuôn tre nhỏ, nới rộng dần theo cuộc sinh trưởng của bèo. Thường bèo được nuôi với phân heo khô, tán bột, trộn với tro rơm. Bèo lớn lên trong lúc người nông dân sửa soạn, cày bừa ruộng. Cấy xong là bèo được thả vào ruộng. Bèo dâu là một loại cây mảnh dẻ, phải thận trọng khi vận dụng để khỏi nát và cũng không nên để khô héo ngoài nước. Không được vứt nó xuống ruộng bừa bãi mà phải nghiêng rổ trong nước rồi lấy tay khẽ quậy cho bèo nhẹ nhàng rời rổ trôi vào ruộng (5).
Rong lam cố định chất đạm
Có nhiều cách rải bèo nhưng phương pháp chắc chắn nhất là đặt nó ở trung tâm thửa ruộng, xung quanh dựng một cái đê nhỏ làm bằng rạ trộn với đất để bèo khỏi phân tán trước khi bám vào nước.. Những đê nhỏ này, như khuôn tre truớc đây trong ao, được nới dần theo mức bành trướng của bèo. Ở Hải Dương, năm 1927, 120kg bèo (khoảng 6 triệu cây) phủ kín sau 46 ngày một diện tích lớn gấp 250 lần diện tích lúc đầu là 580 m 2. Cuộc nảy nở theo chiều ngang của bèo không quấy rầy chút nào sự phát triển thẳng đứng của cây lúa. Trái lại, khi bao trùm mặt ruộng một lớp dày, bèo ngăn cản nước bốc hơi, đỡ mất công dẫn thủy nhập điền, đồng thời làm trở ngại việc phát triển dòi muỗi cùng các loài tảo có hại, từ đấy đỡ mất công nhặt tảo, diệt trùng. Cũng như ở mọi cuộc nuôi trồng khác, ngoài chuyện bảo vệ lượng nước đầy đủ (rễ bèo phải chạm đáy ruộng nhưng đừng quá nhiều để khỏi vướng vào bùn), nhiệt độ vừa phải (trung bình giữa 16 và 22°), còn cần phải tiêu diệt các loài sâu bọ như muỗi đỏ (chironome), bướm ống (pyrale),… Ở Thái Bình, vì thiếu những chất diệt trùng như DDT, sau khi rải tro lên mặt bèo, người ta thường dùng lưới cho ngập bèo xuống nước một đêm (5,6). Viện Sinh vật học Tp Hồ Chí Minh kiếm cách dùng vi khuẩn sinh bệnh như Bacillus thuringensisđể khử trùng (4). Suốt mùa đông, bèo tiếp tục sinh trưởng. Qua xuân, khi nhiệt độ lớn dần, bèo đổi từ màu xanh qua hồng, xám, đen rồi thối nát, phân tán dưới đáy ruộng thành phân, lúc bông lúa bắt đầu chớm nở. Trung bình, năng suất lúa tăng 53% mỗi ha, 27% nhờ phân chuồng, 26% nhờ bèo dâu. Tính trong một năm, bèo dâu cống hiến 300-350 kg chất đạm / ha (6), hay mỗi ngày gần 1kg chất đạm / ha (2) tương đương với số lượng chất đạm thu lượm được với các rau đậu khác như đậu tằm, đậu răng ngựa. Một ưu điểm của bèo so với phân chuồng là qua vụ sau, lúa còn được hưởng chất đạm còn lại của cuộc cộng sinh.
Trong những thập niên 60-70, phong trào làm bèo dâu ở Thái Bình, phục vụ thâm canh năng suất lúa đã phát triển khá mạnh : trên 70% diện tích lúa chiêm xuân, liên tục qua nhiều năm, đều được phủ kín một lượt bèo, 100% riêng ở hai huyện Hưng Hà và Đông Hưng, đặc biệt được phủ hai lượt bèo ở hợp tác xã Vũ Thắng, lá cờ đầu về thâm canh tăng năng suất lúa của tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, theo tác giả bài báo (2)nhận thấy, nhìn chung phong trào sản xuất bèo dâu các tỉnh miền Bắc nước ta tiến triển còn chậm chạp, mặc dù bèo dâu là một giải pháp cần thiết trong vụ sản xuất đông-xuân. Một bài tính dễ chứng minh : tỉnh Thái Bình với 175.000 ha trồng lúa nước, nếu không có bèo dâu thì hằng năm phải dùng ít nhất 2 triệu tấn phân chuồng, tức phải có 2 triệu con lợn mà ở thời điểm này chỉ đếm có 4 vạn con ! Trong nhiều chủ trương kỹ thuật đã được đề nghị để đáp ứng những đặc tính sinh vật của bèo dâu, đáng để ý là một lực lượng lao động chuyên môn làm bèo vì thấy rõ bèo dâu làm dễ nhưng không phải ai cũng làm được.
Mặt khác, tuy tỉnh Thái Bình hồi đó đã có 9 trại chuyên môn nhân giống bèo ở 7 huyện và 60 trại ở các vùng trong huyện, miền Bắc vẫn thiếu một trại giống, ruộng giống chuyên, lượng lao động chuyên, vật tư - kỹ thuật chuyên phục vụ cho sản xuất bèo nên phong trào làm bèo dâu không khả quan. Môt số kinh nghiệm kỹ thuật cũng đã được tổng kết và nâng cao. Vụ tốt nhất của bèo dâu là tháng giêng, ít sâu bệnh, nhưng cũng là tháng có nhiệt độ thấp nhất, cần áp dụng hai biện pháp để khắc phục tình trạng : "đổ ải đến đâu, thả bèo dâu đến đó", nhờ thế bèo dâu có thể lợi dụng được chất màu dễ tiêu và một nhiệt lượng lớn do đất ải tỏa ra ; dùng tro mộc rắc phủ kín lên mặt bèo trong những ngày có sương muối và gió bấc mạnh để tăng cường chống rét cho bèo (2). Ngoài ra, những thời gian phơi ải, kế hoạch đổ ải, kỹ thuật nuôi bèo cũng đã được học hỏi và áp dụng, góp phần nâng cao diện tích bèo dâu toàn tỉnh. Sau nhiều năm, tiến bộ kỹ thuậtầty có được áp dụng rộng rãi trong cả nước như mong muốn chưa ? Vào lúc vấn đề môi trường sinh thái đang được đặt ra khắp nơi, phải chăng nên nghĩ lại việc dùng bèo dâu làm phân bón thay cho hóa chất mặc dầu cách sử dụng bèo dâu có phần phức tạp hơn.
Phân xanh thay thế hóa chất
Trên mặt đất, rong lam không phải độc nhất có khả năng cố định đạm khí. Từ lâu, người ta đã biết hàng chục vi khuẩn, nấm tia có tính chất ấy, sống một mình trong đất hay cộng sinh với cây cỏ. Rhizobiumlà vi khuẩn thuộc loại độc bào kết hợp với các cây rau đậu. Ở đậu nành,, vi khuẩn mang tên Rhizobium japonicum.Trong phòng thí nghiệm Sinh hóa hữu cơ và Sinh học công nghệ ở Paris, một thời chúng tôi đã bỏ công thử tổng hợp rhizobitoxin, một chất phytotoxin thiên nhiên hiện diện rất ít trong bướu rẽ cây đậu nành, có khả năng ức chế enzym cystathionase, mở đường dẫn tới những chất kháng sinh, chống nấm, trị ung thư. Bên cạnh Rhizobium, một vi khuẩn khác cũng đã được nói đến là Frankia(8), hình sợi, thuộc loại nấm tia, cộng sinh với những cây có hoa, trong những cục bướu như Rhizoboium.Cách thức xâm nhập phát triển của vi khuẩn này ở cây có phần khác hơn chút ít. Bên Rhizobium,tế bào vi khuẩn theo đường dây hình ống xâm nhập vỏ rễ cây, dính vào các mô phân sinh của rễ, biến hoá cả về mặt hình thái lẫn sinh lý thành một hình thể gọi là bacteroid, nơi diễn biến cuộc cố định chất đạm. Với Frankia, vi khuẩn tiến vào vỏ rễ cây dưới hình thức những sợi, có khi cấu tạo thành bọng, túi hình cầu hay hình trứng là hình thể tương đương với bacteroid.
Đặc sắc những bướu của Frankialà có thể xuất hiện ở rễ cũng như ở thân, ở các rau đậu như Sesbania rostrata, S. grandiflora(cây so đủa), Pueraria phaseoloides(loại có củ lớn), Aechynomene afrasperaphần lớn bên châu Phi, cũng như trên các cây lớn loại phi lao như Casuarina rumphiane, C. curinghaminanebên Senegal, C. esquisetifolia,cây dương bên nước ta. Ông Hoàng Gia Diêm, nghiên cứu sư ở cơ quan khảo cứu vi khuẩn Frankiachiết xuất từ bướu cây C. junghunianegốc Thái Lan. Sau này, ông là đồng tác giả một cuốn sách về những cây cố định đạm khí (8). Ngoài ra, các loại Leucaena, Acacia, Prosopsis,…cũng đã được chú ý đến. Cuộc cộng sinh Frankia - S. rostrata(9)cống hiến chất đạm chỉ kém chút ít cặp A. pinnata - A. azollae,khoảng 50-150 kg / ha một mùa. Về phần những cây phi lao Casuarina,qua lá rụng thành phân, trồng 3.000 cây / ha, mỗi năm cũng thu lượm được 150-200 kg chất đạm. Chúng còn cống hiến một lợi ích khác là làm màn chắn gió và gắn chặt cồn đồi bị xói mòn. Ở Senegal , nhiều cồn biển đã được cây này bảo vệ. Còn bên Trung Quốc, dọc một bờ biển dài 3.000 km, rộng 0,5-5 km, cây trồng đã chiếm một triệu ha cồn cát. Nhiều phòng thí nghiệm, đặc biệt của cơ quan khảo cứu Pháp ORSTOM bên châu Phi đang xúc tiến cuộc khảo cứu về vi khuẩn Frankia(8).
Về phần bèo dâu thì cuộc khảo cứu cũng đuợc mở rộng. Một mặt, các cây Azollakhác được đem thử nghiệm : A. caroliniana, A. filiculoides, A. mexicana,…thường được xem như rau hoang vô dụng, có khi nguy hại, bây giờ được đem ra thử không những với lúa mà còn với nhiều cây khác như những khoai đậu (tarot) bên đảo Hawai chẳng hạn (6). Mặt kia, nguời ta tìm những ứng dụng khác của bèo dâu và rong lam. Vì chứa đựng protein trong lá, bèo dâu là một thức ăn tốt cho cá (24), gà con (11,26), động vật nhai lại (23). Đem ủ kị khí, bèo dâu cống hiến khí methan (21,14). Sinh khí có thể đạt đến 189 l / kg và xác bèo dùng làm phân bón. Trong số kim loại có mặt trong bèo, nếu Fe và Mn không có ảnh hưởng đáng kể, Cd và Ni tăng gia năng suất khí khi nồng độ không quá cao, Pb có tác dụng tai hại lên bèo ủ (28). Những nhà khảo cứu Trung Quốc còn tìm ra vàng Aụ(III) trong nhân rong lam (26). Bèo dâu là một nguyên liệu để sản xuất quang học khinh khí, dưỡng khí và khí ethylen (25). Khinh khí cũng có thể chế tạo từ bèo dâu qua một vi khuẩn tách chiết từ rễ, Rhodopseudomonas, nuôi cấy trong khoai tây (20). Bên phần rong lam, đem cố định trên polyvinyl, polyurethan, hay alginat thì không những ổn định được tác động nitrogenase mà còn tăng cường tốc độ cố định đạm khí, tốc độ sản xuất khinh khí và khí ammoniac (13,15). Rong lam tách chiết từ bèo còn có khả năng kết dính máu nhờ các lectin nhưng tính chất này bị trypsin phá hủy và cũng có thể bị fucose, rhamnose , fructose, galactose ức chế.
Năm 1980, trong chiếc tàu vũ trụ Soyouz 37, Phạm Tuân, nhà du hành và nghiên cứu Việt Nam, cùng Victor Gorbako, bạn đồng hành Liên Xô, đã đem ra không gian vũ trụ một mớ bèo hoa dâu trong số nhiều loại thực vật khác đã được chọn lựa như chlorella, spirulin, lúa mì, bắp cải, cà chua,…theo những tiêu chuẩn : có cường độ quang hợp cao để bảo đảm nhu cầu khí của người, có hệ số trao đổi khí phù hợp với hô hấp của người ; có năng suất cao, có khả năng sinh trưởng và sinh sản nhanh ; có khối lượng cơ thể bé để tránh gây mất cân bằng sinh thái lúc bị chết đi, có bộ phận sử dụng làm thức ăn chiếm tỷ lệ lớn ; có thành phần sinh hóa phù hợp với khẩu phần thức ăn của người và không quá phức tạp về mức độ công nghệ chế biến thức ăn ; và có khả năng thích nghi với điều kiện sống trong con tàu vũ trụ, thích hợp với phương pháp trồng trong vũ trụ như trồng trong nước theo phương pháp công nghiệp. Song song với những mục tiêu khoa học, kinh tế mà điểm quan trọng là tìm cách thực hiện một hệ thống sinh thái hoàn toàn khép kín trong môi trường nhân tạo của con tàu vũ trụ. Việc đem bèo dâu ra không gian vũ trụ, trong tầm mắt các nhà khoa học ta, là một dịp thuận lợi để thu lượm các dòng bèo có năng suất cao, cố định đạm tốt, chịu nhiệt độ cao, chống chịu với sâu bệnh. Các nhà khảo cứu Việt Nam chắc đang tiếp tục nghiên cứu về quang hợp, hô hấp, cố định đạm, thành phần sinh hóa môi trường dinh dưỡng, hệ vi sinh vật, siêu cấu trúc dưới kính hiển vi điện tử,… của bèo dâu (3). Sách, báo đã thấy xuất hiện (14,18). Như vậy, ta cùng hòa mình với thế giới đang xúc tiến tìm kiếm những phân xanh thay thế hóa chất trong một phong trào lớn mạnh được mệnh danh "cuộc cách mạng xanh".
Tham khảo
1- Bài viết của cụ Nguyễn Công Tiễu (theo thư tịch của Kim Phan) (5)
- Bèo hoa dâu dùng làm phân bón, Imp. Thần Nông Báo, Hà Nội (1930)
- Sách làm ruộng, Imp. Tonkinoise, Hà Nội (1928)
- Những điều bí mật về bèo hoa dâu, một thứ cây dùng làm phân bón, Imp. Ngô Tử Hạ, Hà Nội (1934)
- Khảo cứu về bèo hoa dâu, Khoa Họcsố 9, 13, 14, 20, 85, 86, 87, 88, 89
- L’azolle cultivée comme engrais verts, Bull. Econ.Indochine, Série B, th.4 (1930)
- Conservation de l’azolle en saison chaude,Bull. Econ.Indochine(1934) 1318-20 ; th.1-2(1936)
2- Nguyễn Xuân Tuân, Mấy kinh nghiệm về phát triển bèo dâu, phục vụ thâm canh lúa của tỉnh Thái Bình, Tạp chí Hoạt động Khoa học9 (1979) 6-7,19
3- Nguyễn Hữu Thước, Thí nghiệm bèo dâu trong vũ trụ, Đoàn Kết trích báo N.D. 8(1980)
4- V. Labeyrie, Azolla pinnata, Bull.Infor.Doc. AAFVth.6 38(1981) 11
5- Kim Phan, L’Azolla pinnata, plante miracle des rizières du Vietnam , Biofururth.5 (1982) 11-17
6- Pernette Langley-Danysz, Recherches sur l’azolla, Biofuturth.5 (1982) 19
7- Đào Thế Tuấn, Un engrais vert : l’azolle, Pour la Scienceth.3 65(1984) 22-3
8- Y. Dommergues, B. Dreyfus, Hoang Gia Diem, E. Duhoux, Fixation de l’azota et agriculture tropicale, La Rechercheth.1 (16) 162(1985) 22 ; Y. Dommergues, Hoang Gia Diem, E. Duhoux, Les arbres fixation d’azote, Tủ sách Espace 34(1998)
9- Catherine Allais, Sesbania rostrata, l’africaine à la conquête du monde, La Rechercheth.5 (19) 199(1988) 672
10- Claudine Franche, Azolla, une orientale plusieurs fois centenaire, La recherche, th.5 (19) 199(1988) 674
11- B.P.R. Subudhi, P.K. Singh, Nutritive value of the water fern Azolla pinnata for chicks, Poult. Sci.(2) 57(1978) 378-80
12- J.H. Becking, M. Donze, Pigment distribution and nitrogen fixation in Anabaena azollae, Plant Soil(1-2) 61(1981) 203-26
13- M. Brouers, D.O. Hall, Hydrogen production, ammoniac production and nitrogen fixation by free and immobilized cyanobacteria,Comm. Eur. Communities [Pep.] EUR 10024, Energy Biomass(1985) 387-92
14- Vu Van Vu, W.F. Sang, Wong Fong, J.W. Kijne, K. Planque, R. Kraayenhof, Effects of temperature, pH and bound nitrogen on photosynthesis and nitrogen fixation of Azolla pinnata (Xanh, Vietnam) and Azolla filiculoides Lam, Photosynthetica(1) 20(1986) 67-73
15- M. Brouers, D.O. Hall, Ammonia and hydrogen production by immobilized cyanobacteria, J. Biotechn.(5-6) 3(1986) 307-21
16- L.J. Querubin, P.F. Alcantara, A.O. Princesa, Chemical composition of three Azolla species (A. caroliniana, A. microphyllia, and A. pinnata) and feeding value of azolla meal (A. microphyllia) in boiler ration II.Philipp. Agric.(4A) 69(1986) 479-90
17- O.D. Bekasova, A.A. Mutuskin, S.V. Zore, Content and structural organization of phycobilin pigments in the nitrogen-fixing of cyanobacterium, Anabaena azolla, Biofizika(2) 33(1986) 270-4
18- Nguyen Huu Thuoc, Photosynthesis and nitrogen fixation in the Azolla-Anabaena azollae symbosis, Nauka : Moscow, USSR(1988) 152 tr.
19- H. El-A.Weam, A. Khogali, Protein amino acid composition in six species of Azolla, Delta J. Sci.(4) 11(1987) 2059-69
20- S.P. Singh, S.C. Srivastava, K.D. Pandey, Photoproduction of hydrogen by a non-sulfur bactarium isolated from root zones of water fern Azolla pinnata, Int. J. Hydrogen Energy(6) 15(1990) 40-6
21- S.A. Abbasi, P.C. Nipaney, G.D. Schaumberg, Bioenergy potental of eight common aquatic weeds, Biol. Wastes(4) 34(1990) 35-66
22- L.G. Erokhina, Composition and content of phycobiliproteins in the symbiotic nitrogen-fixing cyanobacterium Anabaena azollae from variousAzolla fern species, Fiziol. Rast.(4) 38(1991) 742-53
23- A. Dewanji, Amino acid composition of leaf proteins extracted from some aquatic weeds, J. Agric. Food Chem.(8) 41(1993) 1232
24- D. Das, K. Sikdar, A.K. Chatterjee, Potential of Azolla pinnata as biogaz generator and as fish-feed, J. Environ. Health(3) 36(1994) 186-91
25- E. Tel-Or, A. Rozen, E. Bar, H. Arad. Hydrogen photoproduction by Azolla and Anabaena azollae,J. Mar. Biotechnol.(1) 34(1996) 52-6
26- J. Zhao, D. Shi, Y. Zhang, Bioaccumulation of Au (III) by cyanobacteria Anabaena azollae, Chin. Sci. Bull.(13) 43(1998) 1119-24
27- A. Lejeune, J. Peng, E. Le Boulenge, Y . Larondelle, C. Van Hove, Carotene content of Azolla ands its variations during drying and storage treatments, Animal Feed Sci. Technol.(3-4) 84(2000) 295-301
28- A. Arora, A. Pabby, P.K. Singh, Heavy metal accumulation by Azolla spp., Contaminated Soils8(2003) 39-47