Những bệnh nhân không nhiễm HIV thường bị bệnh sau khi giảm liều corticoidesvà kéo dài đặc trưng trong vòng 1 - 2 tuần. Bệnh nhân bị nhiễm HIV thường bị bệnh trong vòng vài tuần hay lâu hơn, với bệnh cảnh: sốt, ho khan, khó thở sụt cân, ra mồ hôi ban đêm, tuy nhiên bệnh cảnh lâm sàng thay đổi trên từng bệnh nhân. Nếu người thầy thuốc lâm sàng nghi ngờ và hỏi bệnh sữ kỹ lưỡng có thể giúp phát hiện bệnh sớm. Đo khí máu động mạch sẽ thấy tình trạng thiếu oxy máu và kiềm hô hấp. Có điều nghịch lý là những người không nhiễm HIV lại có những bất thường về mặt cận lâm sàng nặng nề hơn những người bị nhiễm HIV.
X quang phổi cho thấy hình ảnh đặc trưng là thâm nhiễm lan tỏa hai bên bắt đầu từ rốn phổi, có thể có những hình ảnh không đặc trưng khác như nốt đông đặc, tổn thương dạng nang. Trong giai đoạn sớm của bệnh, phim phổi có thể bình thường. Chẩn đoán khẳng định khi xét nghiệm trong đàm của bệnh nhân có P. jirovecii, điều này phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật lấy bệnh phẩm chính xác. Có nhiều phương pháp nhuộm để xét nghiệm nhưng nhuộm miễn dịch huỳnh quang giúp mình nhìn thấy hình ảnh đặc trưng của P. jirovecii.
Nội soi phế quản bằng ống soi mềm với hút dịch rửa phế quản (BAL) làm xét nghiệm tìm P. jirovecii có độ nhạy cao hơn lấy đàm. Nếu lấy đàm không cho kết quả như mong muốn và không thể lấy dịch rửa phế quản thì cần điều trị theo kinh nghiệm với những thuốc đặc hiệu kháng P. jirovecii.
Viêm phổi P. jirovecii nếu không điều trị người bệnh sẽ tử vong do suy hô hấp, do đó cần điều trị càng sớm càng tốt, trước khi có những tổn thương phế quản lan rộng. Các yếu tố tiên lượng bệnh là áp lực oxy động mạch, số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, những hình ảnh bất thường trên phim X quang ngực, nồng độ albumin trong máu, tình trạng đồng nhiễm các bệnh phổi khác trên bệnh nhân.
Thuốc điều trị đặc hiệu P. jirovecii là trimetoprim sulfamethoxazol (TMP - SMZ) có hoạt tính ức chế tổng hợp axit folic là thuốc được lựa chọn điều trị cho tất cả các thể bệnh Pneumocystis. Điều trị cần kéo dài trong 14 ngày đối với bệnh nhân không nhiễm HIV và 21 ngày cho những người nhiễm HIV, vì bệnh nhiễm HIV đáp ứng chậm hơn, phải sau 7 ngày mới có thể kết luận là điều trị thất bại. Sử dụng thêm thuốc vào phác đồ không đem lại hiệu quả hơn mà có thể làm tăng nguy cơ nhiễm độc. TMP - SMZ được các bệnh nhân không nhiễm HIV dung nạp tốt nhưng có thể nhiều bệnh nhân nhiễm HIV bị những phản ứng phụ không mong muốn như dị ứng thuốc, sốt, phát ban, giảm bạch cầu đa nhân trung tính, giảm tiểu cầu (cần kiểm tra công thức máu khi dùng thuốc trên 14 ngày), viêm gan (hiếm), tăng kali máu, rối loạn tiêu hóa, ù tai. Các thuốc thay thế có thể là pentamidin, dapson, primaquin và clindamycin.
Những bệnh nhân HIV thường sớm bị ảnh hưởng xấu lên chức năng hô hấp ngay sau khi sử dụng thuốc kháng P. jirovecii, một số nghiên cứu cho thấy nếu phối hợp thêm prednison (15 - 30 phút trước khi dùng TMP - SMZ), có thể ngừa được vấn đề này và tăng tỷ lệ sống còn cho bệnh nhân. Dự phòng tiên phátđược chỉ định cho những bệnh nhân nhiễm HIV có số lượng tế bào CD4 < 200/ m L, còn với những bệnh nhân khác kéo dài cho đến khi tình trạng miễn dịch không còn bị ức chế. Thuốc phòng ngừa vẫn là TMP - SMZ hoặc các thuốc thay thế với liều lượng thấp hơn điều trị. Cần thận trọng phòng ngừa sự tiếp xúc giữa bệnh nhân Pneumocystis với những người nhạy cảm.