Bảo vệ tài nguyên môi trường biển một vấn đề cần quan tâm
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn đề đặt ra là làm sao để đánhthức tiềm năng to lớn tài nguyên biển nhằm phát triển kinh tế biển và đưa nó trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, trước một tiềm năng kinh tế lớn, hiện nay tài nguyên biển Việt Nam đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, trong đó cơ bản là do: nhận thức về vị trí, vai trò của tài nguyên biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của các cấp, các ngành và nhân dân chưa thật sự đầy đủ; trong khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi kinh tế biển vẫn đang chủ yếu là sản xuất nhỏ, cơ sở hạ tầng, chưa thật sự đồng bộ; tình trạng ô nhiễm môi trường biển, khai thác hải sản mang tính chất hủy diệt chưa được ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả, đô thị hoá, khai hoang bãi triều, nuôi trồng hải sản, biến đổi khí hậu, a xít hoá đại dương, giao thông hàng hải…
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, mục tiêu của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là “phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh”.
Cụ thể “Phấn đấu đến năm 2020 kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước, trong đó riêng của kinh tế trên biển khoảng 21-23%...”
Với mục tiêu chung đó, du lịch biển đảo là ngành có đóng góp quan trọng.
Do đó, muốn đạt được mục tiêu đã đề ra về khai thác tài nguyên môi trường biển hiện nay, chúng ta cần quan tâm một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đầy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai trò của biển đối với phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một nội dung cơ bản góp phần quan trọng vào việc khai thác có hiệu quả tài nguyên biển, bởi lẽ hiện nay vẫn còn không ít ngừơi dân chưa thực sự hiểu đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của biển đối với phát triển nền kinh tế đất nước, họ chưa có ý thức tự giác, tự nguyện trong việc bảo vệ môi trường biển, nhất là cư dân ven biển. Vì vậy, cần có những hình thức, biện pháp giáo dục, tuyên truyền sâu rộng, có hệ thống về quan điểm, mục tiêu, các định hướng chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng – an ninh trên các vùng biển, đảo trong toàn xã hội. Trong đó, quan tâm việc tuyên truyền những vấn đề có tính pháp lý để khẳng định chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc Việt Nam. Tuyên truyền vận động các cấp, các ngành và nhân dân tích cực vươn ra các vùng biển, đảo xa bờ để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; đồng thời để khẳng định và góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; chú trọng tuyên truyền cho nhân dân địa phương ven biển về nâng cao ý thức chấp hành luật pháp quốc gia, quốc tế trên biển, không vi phạm đánh bắt hải sản vùng biển nước ngoài làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữ nước ta với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, để công tác tuyên truyền về biển, đảo có hiệu quả cần phải luôn bảo đảm được sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng đúng đắn chặt chẽ của cấp uỷ Đảng và các cơ quan chức năng, triển khai thực hiện sát hợp, vận dụng tổng hợp, linh hoạt nhiều hình thức, phương pháp cho phù hợp với từng địa bàn, thời gian và đối tượng. Song song với hình thức xử phạt nghiêm minh, đúng pháp luật với các trường hợp vi phạm luật về khai thác và bảo vệ tài nguyên biển.
Thứ hai, cần xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách, tăng cường vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng biển. Đây là vấn đề cơ bản nhằm khai thác tài nguyên biển một cách hiệu quả nhất. Bởi lẽ, có xây dựng được chiến lược, chính sách tổng thể, xây dựng được kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ về biển mới có thể phát huy được tiềm năng của biển ở nước ta. Vì vậy, cần phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng các cảng nước sâu cải tiến đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kỹ thuật – công nghệ các cảng; tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ thống sân bay ven biển, xây dựng tuyến đường ven biển và đường cao tốc Bắc – Nam trên biển…
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế- xã hội với bảo đảm an ninh quốc phòng, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển; phát triển khoa học – công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Phấn đấu đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển gồm các ngành, lĩnh vực: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp đóng tàu, phát triển các ngành dịch vụ mũi nhọn như vận tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân hoạt động, sinh sống trên biển, hải đảo và những vùng thường bị thiên tai.
Thứ tư, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh giáo dục quốc phòng – an ninh biển trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, coi trọng bồi dưỡng các lực lượng trực tiếp hoạt động trên biển, đảo; nghiên cứu sâu hơn về chiến lược biển của các nước trong khu vực và thế giới để đề ra các chính sách phù hợp nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ quyền quốc gia trên biển, đảo. Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ các hình thức biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế khác trong sản xuất và khai thác tài nguyên biển. sớm xây dựng chính sách đặc biệt để thu hút và khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài ngày trên biển, phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc biển, đảo của Tổ quốc. Thực hiện mục tiêu tổng quát về định hướng Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 mà Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã đưa ra là thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc. Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong việc khai thác, bảo vệ tài nguyên, môi trường nói chung và tài nguyên, môi trường biển nói riêng, là cơ sở, công cụ pháp lý để Nhà nước điều tiết, quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Pháp luật được thể hiện dưới hình thức các văn bản có hiệu lực khác nhau. Hệ thống luật pháp nước ta chưa đầy đủ các tiêu chuẩn về khai thác tài nguyên, môi trường biển, làm cơ sở hành lang pháp lý về quy định và xét xử các vi phạm về khai thác tài nguyên, môi trường biển. Bởi vậy, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần nhanh chóng đưa các nội dung luật bảo vệ môi trường biển thành những nội dung dưới luật cụ thể, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi. Ngày 27/12/1993, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường, tạo cơ sở pháp lý trong công tác bảo vệ môi trường. Hiện nay, chúng ta đã có những đạo luật riêng của từng ngành như Luật Dầu khí, Luật Thủy sản, Luật Du lịch, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Luật Đất đai. Ngày 6/3/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định 25/2009/NĐ-CP, đây là một văn bản pháp lý quan trọng quy định thể chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Nghị định cũng đã quy định việc cấp phép khi khai thác sử dụng tài nguyên biển đảo và có những quy định cụ thể khác nhằm ngăn ngừa, kiểm soát tình trạng ô nhiễm biển đảo… Song thực tế hiện nay nhận thức hiểu biết của người dân về những hoạt động khai thác có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng như hiện tượng chặt phá rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, xả rác, nước thải và các chất thải công nghiệp ra biển… còn rất hạn chế. Bởi vậy, xây dựng hệ thống dịch vụ pháp lý để giúp cho mọi người hiểu, nắm vững pháp lý, nắm vững pháp luật về bảo vệ môi trường biển, sống và hành động theo pháp luật. Ngoài ra, cần ban hành cơ chế, chính sách đảm bảo cho sự phát triển nhanh, bền vững các lĩnh vực liên quan đến biển, nhất là bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ những vùng biển đảo có giá trị chiến lược về kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách cần kết hợp chặt chẽ giữa ban hành pháp luật, giáo dục pháp luật và thi hành pháp luật về khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nước ta.
Tài nguyên môi trường biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để khai thác được tiềm năng đó cần phải có một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ thể. Vì vậy, để khai thác được tài nguyên môi trường biển một cách tốt nhất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu nói trên, nhất định chúng ta sẽ khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đẹp, giàu của đất nước, góp phần quan trọng và xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.








