Bảo tàng thiên nhiên - Mục tiêu ba trong một
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết sau đây của TS Đỗ Nam, giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ về mục tiêu đầy tham vọng của bảo tàng thiên nhiên.
Lịch sử lâu đời của các bảo tàng thiên nhiên
Bảo tàng lịch sử tự nhiên, bảo tàng khoa học tự nhiên hay bảo tàng thiên nhiên là một loại hình bảo tàng phổ biến trên thế giới. Các bảo tàng này đã được xây dựng ở các nước phát triển từ rất sớm, khoảng giữa thế kỷ XVIII, đã và đang đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, khoa học và du lịch ở trong nước và quốc tế. Đó là Museum National d’Historie Naturelle (Paris, Pháp), The Natural History Museum (Tokyo, Nhật), Transvaal Museum (Johannesburg, Nam Phi), Leyden Museum (Hà Lan), American Museum of Natural History (New York, Hoa Kỳ)… Một số nước trong khu vực cũng đã có những bảo tàng thiên nhiên được thế giới biết đến như Bảo tàng Thực vật và Vườn thực vật Bogor( Indonesia), Raftles Museum( Singapore ). Hoạt động của các bảo tàng thiên nhiên có tác dụng to lớn trong việc phổ biến kiến thức, tuyên truyền, đặc biệt là việc lưu giữ, bảo quản những bộ sưu tập tư liệu, mẫu vật về thiên nhiên như những tài sản vô giá của quốc gia và của nhân loại.
Ở nước ta, một số cơ sở về bảo tàng thiên nhiên đã có từ thời thuộc Pháp trước Cách mạng Tháng Tám. Hoạt động chủ yếu của các bảo tàng này là sưu tầm và lưu giữ các bộ sưu tập động, thực vật, khoáng vật, để phục vụ yêu cầu nghiên cứu khoa học ở Đại học Khoa học Hà Nội, khu Đấu xảo Hà Nội (Bảo tàng Maurice Long), Sở thú Sài Gòn (Bảo tàng Blanchard de la Bizosse), Viện Hải dương học Nha Trang, Sở Địa chất Đông Dương. Trong những bộ sưu tập thực vật gồm tới 180.000 tiêu bản của 6.000 loài thực vật với những mẫu thu được từ 130 năm trước, các bộ sưu tập sinh vật biển với trên 10.000 loài được lưu giữ gần một thế kỷ, bộ sưu tập khoáng vật lớn được sưu tập từ đầu thế kỷ trước… Đây đều là những tư liệu khoa học đặc biệt có giá trị không chỉ với nước ta mà còn cả trong khu vực và thế giới,
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, nhất là từ năm 1954 đến nay, cùng với sự phát triển của hoạt động nghiên cứu khoa học tự nhiên ở nước ta, các bộ sưu tập mẫu vật nói trên tiếp tục được lưu giữ, bổ sung. Chỉ riêng về sinh vật cũng đã có thêm hàng triệu tiêu bản, mẫu vật mới do các cơ quan điều tra, nghiên cứu khoa học trong nước sưu tập. Một số cơ quan khoa học đã xây dựng được những cơ sở ban đầu của bảo tàng thiên nhiên, chủ yếu để phục vụ yêu cầu nghiên cứu khoa học và giảng dạy có tính chất học đường của ngành, như Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Sinh học nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh, Viện Hải dương học Nha Trang và Viện Tài Nguyên và Môi trường biển Hải Phòng, Bảo tàng Phân viện Sinh học Đà Lạt thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Điều tra quy hoạch rừng, Cục Địa chất khoáng sản Việt Nam… Thậm chí đã bắt đầu xuất hiện góc bảo tàng thiên nhiên nằm trong bảo tàng tổng hợp tư nhân đầu tiên mở cửa phục vụ du khách ở Phú Quốc.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trước hết là do tổ chức phân tán và kinh phí hạn chế, nên đến nay những cơ sở bảo tàng này mới chỉ là nơi lưu giữ các sưu tập mẫu vật phục vụ nghiên cứu, giảng dạy ở cấp cơ sở mà chưa có những hoạt động mang tính chất bảo tàng thực sự. Vì vậy, tác dụng phổ biến khoa học, giáo dục, tuyên truyền còn rất hạn chế. Mặt khác, các bộ sưu tập còn bị xuống cấp, hư hỏng do thiếu điều kiện bảo quản va do các tác động của khí hậu nhiệt đới, ô nhiễm môi trường và các loại côn trùng. Trên thực tế, cho tới nay, ở nước ta chưa có một bảo tàng thiên nhiên hoàn chỉnh để giới thiệu một cách tổng thể và có hệ thống về điều kiện tự nhiên, về nguồn tài nguyên phong phú đa dạng của thiên nhiên Việt Nam, các vùng miền của đất nước cho các đối tượng nhân dân. Trong khi đó, về mặt khoa học xã hội, ta đã có những Bảo tàng Cách mạng, Bào tàng Lịch sử, Bảo tàng Mỹ thuật và Bảo tàng dân tộc học…
Với những lý do trên, theo đề nghị của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt chủ trương thành lập hệ thống bảo tàng thiên nhiên Việt Nam tại Quyết định số 86/2006?QĐ-TTg ngày 20/04/2006 của Thủ tướng chính phủ về “Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng thiên nhiên ở Việt Nam đến năm 2020”. Với quan điểm chủ đạo “đảm bảo được tính thống nhất trong đa dạng của thiên nhiên, tính xã hội, tính khoa học – kỹ thuật, tính thực tiễn và tính khả thi cao khi thực hiện” quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng thiên nhiên ở Việt Nam đến năm 2020 đặt ra mục tiêu ”Xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống bảo tàng thiên nhiên hoàn chỉnh về cơ cấu, hiện đại về nội dung hoạt động, phục vụ tốt nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy, tham quan, học tập, phổ biến kiến thức về quá trình phát triển lịch sử tự nhiên ở Việt Nam”.
Theo quyết định 86/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, thì hệ thống bảo tàng thiên nhiên của Việt Nam bao gồm bảo tàng thiên nhiên cấp quốc gia, các bảo tàng thiên nhiên khu vực và các bảo tàng chuyên ngành. Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đặt tại Hà Nội là bảo tàng cấp 1 hay bảo tàng cấp quốc gia, bốn bảo tàng cấp 2: Bảo tàng Thiên nhiên Khu vực Tây Bắc đặt tại thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Bào tàng Thiên nhiên Khu vực Duyên hải miền Trung đặt tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Bảo tàng Thiên nhiên Khu vực Tây Nguyên đặt tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và Bảo tàng Thiên nhiên Khu vực Nam Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Sức thuyết phục từ thiên nhiên đa dạng và điển hình của miền Trung
Khu vực duyên hải miền Trung bao gồm 14 tỉnh từ Thanh Hóa ở Bắc Trung Bộ vào đến Bình Thuận ở Nam Trung Bộ. Theo đánh giá của các nhà khoa học thì khu vực này đặc trưng bởi thiên nhiên đa dạng và điển hình, trong đó, có hai hệ thống sinh thái rừng mưa nhiệt đới và hệ sinh thái đầm phá nước lợ ven biển.
Hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới phân bố dọc theo dãy Trường Sơn, được Quỹ Bảo vệ Đời sống Hoang dã (WWF) đánh giá là một trong 200 vùng sinh cảnh toàn cầu theo phân hạng quốc tế. Tại đây có các sinh cảnh nổi tiếng nhất thế giới về mặt sinh học, được xác định như những cảnh quan ưu tiên về bảo tồn đa dạng sinh học. Đây là nơi được bao phủ bởi các sinh cảnh rừng rất đa dạng, là nơi hiện tại rừng nguyên sinh còn lại nhiều nhất ở Việt Nam . Qua điều tra và tổng hợp các nguồn báo cáo, đã ghi nhận được trong phạm vị Vườn Quốc gia Bạch Mã trên địa bàn tỉnh duyên hải miền Trung, có tổng cộng 2.131 loài thực vật, 126 loài lưỡng cư, 336 loài bướm, 358 loài chim, 92 loài cá và 83 loài động vật có vú. Rừng ở tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu là rừng kín thường xanh lá rộng đất thấp nhiệt đới và rừng núi thấp ở các địa điểm có độ cao lớn và rừng núi thấp ở các địa điểm có độ cao lớn hơn. Trong các loài thực vật và động vật có nhiều loài đặc hữu địa phương, đặc hữu hoặc gần đặc hữu, và một số loài được ghi nhận là mới đối với Viêt Nam và thế giới.
Dọc theo bờ biển các tỉnh khu vực duyên hải miền Trung có 12 đầm, phá Tam Giang – Cầu Hai ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai là hệ thống các đầm, đầm Sam – Chuồn, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai, kéo dài khoảng 68km, bề rộng dao động từ 0,5km đến 11km, diện tích mặt nước rộng xấp xỉ 22 ngàn hecta. Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai được đánh giá là tiêu biểu nhất trong 12 đầm phá nhiệt đới ven bờ của Việt Nam và là lớn nhất về quy mô vực nước ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Hệ đàm phá Tam Giang – Cầu Hai thu hút được sự quan tâm của quốc gia và quốc tế vì nguồn lợi thủy sinh phong phú, tính đa dạng sinh học cao ở cả ba cấp độ hệ sinh thái, giống loài và nguồn gen. Ngoài ra, đây còn là điểm dừng chân của hơn 30 loài chim nước di trú, trong số đó có nhiều loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và Danh lục các loài chim được bảo vệ nghiêm ngặt của Cộng đồng Châu Âu và là địa điểm có các thảm cỏ biển tập trung – những khu rừng dưới nước, lớn thứ hai ở Việt Nam.
Chính sự phong phú, đa dạng và điển hình của tự nhiên của các tỉnh khu vực duyên hải miền Trung là lý do thúc đẩy nhà nước đưa khu vực này vào quy hoạch hệ thống các bảo tàng thiên nhiên quốc gia.
Giấc mơ về bảo tàng thiên nhiên với mục tiêu “ba trong một”
Bảo tàng thiên nhiên khu vực duyên hải miền Trung tại Thừa Thiên Huế nhắm đến đồng thời ba mục tiêu hay nói cách khác là đặt ra mục tiêu “ba trong một”. Trước hết bảo tàng là một thiết chế văn hóa hoàn toàn mới nhằm đến mục tiêu thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, trước hết là nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Bảo tàng thiên nhiên còn là một phòng thí nghiệm lớn về tự nhiên, nơi các nhà khoa học và sinh viên các ngành khoa học tự nhiên và môi trường các trường đại học và cao đẳng có thể nghiên cứu, học tập, giáo viên và học sinh các trường tiểu học và trung học có thể tham quan, sinh hoạt ngoại khóa. Trên thế giới các bảo tàng thiên nhiên luôn là nơi gắn liền với nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng về khoa học tự nhiên. Và cuối cùng, bảo tàng thiên nhiên tại Huế sẽ là một điểm đến, một sản phẩm du lịch hoàn toàn mới và độc đáo dành cho du khách cả trong nước và quốc tế.
Ngoài lòng quyết tâm, kiến thức và các kỹ năng, để đạt được những mục tiêu trên của bảo tàng thiên nhiên, những người xây dựng bảo tàng thiên nhiên cần phải có thêm một chút lãng mạn. Hãy nghe cách đặt tên để hình dung về quy mô đầu tư, về lựa chọn địa điểm và dáng vẻ kiến trúc bên ngoài, về sự phong phú và hấp dẫn của nội dung trưng bày bên trong, về những thành tựu của khoa học và kỹ thuật hiện đại sẽ được ứng dụng trong xây dựng và hoạt động của bảo tàng: nhà trưng bày Trung tâm, vườn “Rừng mưa nhiệt đới” và bể cá “Thế giới thủy sinh đầm phá”. Các bảo tàng thiên nhiên có tham vọng thu gọn thế giới tự nhiên vào một không gian hữu hạn. Nhưng thế giới tự nhiên lại cực kỳ phong phú và hết sức rộng lớn, nên muốn thu gọn kiểu gì thì quy mô về không gian cũng phải đủ để phản ánh một phần nào đó sự thật của tự nhiên. Vì vậy, việc tách bảo tàng thành 3 hợp phần độc lập có quy mô, chức năng hoạt động và đặc trưng kỹ thuật khác nhau, nhưng vẫn đảm bảo tính nhất quán của hệ thống như trên là phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh Thừa Thiên Huế, và thể hiện được những đặc thù cơ bản của thế giới tự nhiên của khu vực duyên hải miền Trung.
Nhà trưng bày Trung tâm là nơi trưng bày tất cả các đối tượng tự nhiên của các tỉnh khu vực duyên hải miền Trung, trừ những đối tượng cần bảo tồn nguyên vị hoặc chuyển vị nhưng vẫn ở trạng thái tự nhiên, trong một hệ thống sinh thái gần như nguyên vẹn, mà điều kiện trong nhà khó thực hiện được, như các loài cây rừng trong hệ sinh thái đầm phá, các hang động đá vôi, các di sản địa chất… Đi liền với các gian trưng bày là các phòng phân loại, giám định và chế tác mẫu vật, các kho bảo quản mẫu vật với các điều kiện kỹ thuật khác nhau.
Vườn “Rừng mưa nhiệt đới” là một vườn thực vật rừng, có chức năng giới thiệu với người tham quan một phần của hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới tiêu biểu của dẫy Trường Sơn. Đến đây, khách tham quan sẽ cảm nhận được một phần sự đa dạng của hệ sinh thái rừng với các tầng, tán thực vật, các loài cây rừng phổ biến, các loài cây leo dài hàng cây số, được tận hưởng hương thơm của hoa rừng, vị ngọt của trái rừng… Khó khăn lớn nhất cản trở ý thưởng xây dựng vườn “Rừng mưa nhiệt đới” là thời gian. Các cây rừng bản địa bao giờ cũng là các loài cây có tốc độ sinh trưởng chậm, nên để có thể hình thành vườn “Rừng mưa nhiệt đới” cũng mất ít nhất từ 15 đến 20 năm. Tất nhiên, nếu chúng ta có nguồn vốn lớn, với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chúng ta có thể đào và chuyển cây rừng lớn, nhiều tuổi từ rừng về. Nhưng nguồn vốn là một vấn đề lớn của bất kỳ dự án nào. Quy mô vườn “Rừng mưa nhiệt đới” càng lớn thì sự diễn tả hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới mà chúng ta mong muốn càng gần với tự nhiên. Vì vậy, diện tích tối thiểu của vườn là 20ha và tối đa là không hạn chế
Bể cá “Thế giới thủy sinh đầm phá” là mô hình thu nhỏ, cố gắng mô tả một cách gần đúng hệ sinh thái đầm phá nhiệt đới ven bờ, một hệ sinh thái đặc thù của khu vực duyên hải miền Trung (các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Nam không có hệ sinh thái này). Hình dung một cách đơn giản nhất, bể cá “Thế giới thủy sinh đầm phá” là một bể cá nước lợ nửa tự nhiên. Vì điều kiện kỹ thuật, nó phải được xây dựng ở khu vực ven đầm phá. Nếu kỹ thuật cho phép, nó sẽ được xây dựng nửa chìm, nửa nổi ngay bên bờ đầm phá. Trong bể cá không chỉ có cá như tên gọi mà là cả một hệ sinh thái: các thảm cỏ thủy sinh, các loài phù du, giáp xác, thân mềm, cá… Hiện tại, ở Việt Nam bể cá nước mặn lớn nhất được xây dựng từ thời thuộc Pháp ở Nha Trang, và hiện nay đang được khai thác hết sức có hiệu quả. Ngoài ra, còn có các bể cá nhỏ hơn ở công viên Đầm Sen, công viên Suối Tiên… ở thành phố Hồ Chí Minh. Khó khăn lớn nhất của công trình bể cá “Thế giới thủy sinh đầm phá” là kỹ thuật xây dựng và công nghệ vận hành. Các nước phát triển gần chúng ta, như Nhật Bản, Hàn Quốc…là những quốc gia có công nghệ và kinh nghiệm xây dựng các bể cá loại này. Chắc chắn, trong quá trình xây dựng, từ giai đoạn hình thành ý tưởng thiết kế đến giai đoạn thi công và vận hành, khai thác công trình, chúng ta phải sử dụng tư vấn quốc tế.
Trình độ khoa học và công nghệ của thời đại và tư tưởng hội nhập bắt buộc chúng ta phải học hỏi từ những điều đầu tiên, nhỏ nhất để tiến kịp với thế giới. Điều này sẽ phải được thể hiện ngay trong khâu thiết kế các công trình của Bảo tàng. Nhà trưng bày Trung tâm của bảo tàng phải vừa có ngôn ngữ kiến trúc của một thiết chế văn hóa – khoa học và công nghệ hiện đại với đầy đủ các công năng của một bảo tàng, vừa phải tạo được ấn tượng từ sự khác biệt của một điểm đến du lịch đặc biệt, có khả năng hấp dẫn được du khách đến với tự nhiên vốn lãng mạn và phong phú. Bể cá “Thế giới thủy sinh đầm phá” – một công trình đặc biệt của bảo tàng – phải được thiết kế đặc biệt, gắn với thiên nhiên đầm phá, và sử dụng các công nghệ hiện đại để xây dựng, tạo nên một điểm nhấn, một khởi đầu cho các tua du lịch sinh thái đầm phá vốn giàu tiềm năng, nhưng chưa được khai phá và phát huy.
Các thiết bị laser, công nghệ thông tin và truyền thông, các vật liệu nano… sẽ được ứng dụng vào các hoạt động thẩm định, trưng bày, bảo quản, giới thiệu… tư liệu, mẫu vật, các bộ sưu tập. Công nghệ thực tại ảo trong công nghệ thông tin sẽ giúp người tham quan có cảm giác đi vào một khu rừng nhiệt đới rậm rạp và ẩm ướt, đầy bí ẩn và hiểm nguy… khi vào phòng trưng bày các hệ sinh thái và sản phẩm từ rừng nhiệt đới. Đó là cơ hội, đồng thời là thách thức của những người lập dự án, thi công xây dựng các công trình kiến trúc và vận hành bảo tàng trong tương lai. Sẽ hầu như không có người giới thiệu cầm que chỉ vào những mẫu vật được bảo quản bằng các phương pháp truyền thống, những bức ảnh chụp thiên nhiên qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, sẽ là một thế giới tự nhiên được tạo dựng và giới thiệu bằng các công nghệ hiện đại, được điều hành và quản lý bởi một đội ngũ nhân lực có trình độ khoa học và công nghệ, thông qua công nghệ quản lý tiên tiến.
Để bảo tàng có thể đi vào hoạt động và phục vụ công chúng, các công trình kiến trúc đẹp và hiện đại là chưa đủ, mà còn cần có các bộ sưu tập mẫu vật được phân loại khoa học và trưng bày theo các chủ đề tư tưởng rõ ràng và logic. Nếu không có mẫu vật thì không có bảo tàng, mà việc sưu tầm mẫu vật lại cần có thời gian. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ, công nhân viên của bảo tàng phải được hình thành sớm, được gửi đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu ngay sau khi bảo tàng được thành lập và công việc đầu tiên phải tiến hành là thu thập mẫu vật mà không chờ xây dựng các công trình kiến trúc.
Thành lập và xây dựng Bảo tàng thiên nhiên khu vực duyên hải miền Trung trước hết là nghiêm chỉnh triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể của chính phủ Việt Nam ở khu vực duyên hải miền Trung, nơi có thiên nhiên đa dạng và điển hình. Nhưng, quan trọng hơn, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ có thêm một thiết chế văn hóa độc đáo, một tổ chức khoa học và công nghệ tổng hợp, đồng thời là một điểm du lịch hấp dẫn góp phần vào mục tiêu xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành trung tâm văn hóa đặc sắc, trung tâm du lịch lớn, trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước và khu vực.