Báo động về tình trạng một số người đang làm hỏng tiếng Việt
Có thể kể ra một số biểu hiện cụ thể dưới đây:
- Sính dùng chữ nước ngoài, nhất là các từ Hán - Việtđến mức tràn lan, phổ biến vô tội vạ. Có nhiều từ ngữ tiếng ta đã có, nhưng một số người cứ thích vay mượn các từ Hán - Việt như: hiệndiện(có mặt), danh tính(tên, họ), thường nhật(hàng ngày), thường niên(hàng năm), vô danh tính(không có họ, tên), quốc nội(trong nước), hy hữu(hiếm có), hiện hữu(hiện có), vũ đoàn(đoàn múa), thuỷ thủ đoàn(đoàn thuỷ thủ), đại văn gia(nhà văn lớn), nữ khoa học gia(nhà khoa học nữ), nhiếp ảnh gia(nhà nhiếp ảnh), toán gia(nhà toán), hồi gia(về nhà), tân gia(nhà mới) v.v…
Tại sao không dùng các tiếng Việt (như trong dấu ngoặc đơn) để dễ hiểu, dễ nhớ mà một số người cứ thích cầu kỳ, rắc rối, dùng chữ nước ngoài mới “oai”. Chúng ta hãy hình dung các cháu thiếu niên học sinh cấp 1, cấp 2 chưa có chút hiểu biết về Hán - Nôm thì làm sao mà hiểu được các từ như: danh tính, hiện diện….kể trên.
- Dùng từ sai, diễn đạt không chính xác:Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng sinh thời đã mấy lần viết bài nhắc nhở mọi người cần thận trọng, sử dụng đúng các từ ngữ, đặc biệt với các từ như: khiêm tốn, tồn tại…
“Khiêm tốn”là từ để chỉ một biểu hiện rất cao đẹp của đạo đức con người. Nó khác hẳn, nghịch nghĩa với từ “kiêu ngạo”.Ấy vậy mà nhiều người đang lạm dụng “khiêm tốn”một cách hết sức “đại trà” trong khi nói, viết, kể cả trong các văn bản của nhà nước, đại loại như : thành tích(kết quả) khiêm tốn, tuổi đời khiêm tốn, căn nhà khiêm tốn v.v…
“Tồn tại”là từ để chỉ những cái đang có, đang xuất hiện, bao gồm cả ưu điểm, thành tích, kết quả lẫn khuyết điểm, vướng mắc, sai lầm. Vậy mà nhiều người vẫn cứ dụng “tồn tại”theo nghĩa phiến diện, chỉ có nghĩa một mặt là xấu xa, sai lầm, khuyết điểm, vướng mắc. Cần viết thật cụ thể nghĩa của từ “tồn tại”,chứ không thể nêu chung chung như vậy, cốt để người nghe chỉ được hiểu từ ấy với nghĩa xấu.
Lâu nay trên các báo chí xuất hiện nhan nhản từ “vấn nạn”,hễ cứ việc gì hơi khó giải quyết thì dùng “vấn nạn”:vấn nạn việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp; vấn nạn trẻ em lang thang, cơ nhỡ; vấn nạn cơm tù; vấn nạn thuốc lắc… Theo chúng tôi, dùng từ “vấn nạn”là tối nghĩa, gây rắc rối, khó hiểu cho người đọc. Hãy cứ gọi thẳng đó là “tệ nạn”, “tai nạn”hay “vấn đề nan giải”(khó giải quyết).
- Tự tạo ra một số từ ngữ thừa, không cần thiết, làm phức tạp tiếng Việt - một thứ tiếng rất giàu và đẹp của cha ông ta để lại và xa lạ với tiếng nói quần chúng. Trong một số chương trình của Đài truyền hình Việt Nam , Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội đã mắc thiếu sót này. Có phát thanh viên quen miệng, trở thành quán từ, hay nói “ứng viên”, “nhóm họp”, “trình chiếu”, “tiếp ngay sau đây”… Sao không nói là “thí sinh”(người dự thi), “họp”(hội nghị, hội đàm, hội thảo ), “chiếu”(chiếu phim) hay “sau đây”cho dễ hiểu, mà cứ vòng vo, tự ý thêm từ nghữ một cách chủ quan, xa lạ. Xin nhớ rằng, dân tay hay nói là “nhóm bếp”, “nhóm lửa”, “nhen nhóm phong trào”chứ có ai nói “ nhóm họp” đâu.
Có một số bạn dẫn chương trình đã tuỳ tiện diễn đạt sai, không đúng ngữ pháp Việt Nam . Chẳng hạn trong buổi truyền hình “ Hãy chọn giá đúng” vào khoảng 20h ngày thứ tư, 25-5-2005 vừa qua của VTV3, bạn M.V đã nói: “ Chị Thuỷ đến từ Hà Nội”. Chương trình truyền hình này được tổ chức tại Hà Nội mà chị Thuỷ lại đang công tác tại Hà Nội, chứ có phải tận nơi nào xa Hà Nội đâu. Vậy thì tại sao lại diễn đạt không lô-gíc và lủng củng như vậy?
Lại có phát thanh viên không chịu khó nghiên cứu, học tập cộng với tác phong làm việc cẩu thả nên đã trích dẫn sai một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, phương ngôn rồi tuỳ ý giải thích, bình luận, suy diễn theo chủ quan sai lầm của mình. Trong chương trình “ Chiếc nón kỳ diệu” của VTV3, phát ngày thứ bảy, 4-1-2003, bạn L.V trong lời chúc đầu năm đã nói “ ăn ra làm có” (đúng ra là “ ăn nên làm ra”)
Một số phát thanh viên, biên tập viên do muốn khoe khoang, đề cao kiến thức và vốn ngoại ngữ (thực ra còn rất nông cạn) của mình nên thích dùng các câu theo kiểu văn Anh, văn Pháp để diễn đạt ý của mình, khiến người xem, người nghe rất khó chịu, vì nó cầu kỳ, không trong sáng, không phù hợp với cách nghĩ, cách diễn đạt của người Việt Nam. Có phóng viên do kiến thức và trình độ văn chương hạn chế nên văn viết trục trặc, không trau chuốt, từ dùng không chuẩn, câu cụt, câu què, “dây cà ra dây muống”, sai cả ngữ pháp. Điều này cũng gây sự bất bình của công chúng.
Còn có thể nêu ra rất nhiều trường hợp khác nữa về việc một số phóng viên, dù rằng không tự giác, đã và đang làm hỏng tiếng Việt một cách ghê gớm.
Thật khó mà kể hết tác hại của những thiếu sót nói trên đối với công chúng và đồng nghiệp. Chỉ biết rằng các thiếu sót về việc sử dụng ngôn ngữ và cách diễn đạt đã và đang lan đến một số đài phát thanh và truyền hình địa phương như Hà Tây chẳng hạn.
Chúng ta đều biết tác dụng hết sức to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là đài truyền hình, vì nó tác động trực tiếp, sâu rộng, kịp thời đến hàng triệu con người. Người ta tin tưởng, làm theo cái hay, cái tốt mà đài ca ngợi, biểu dương và lên án những thói hư, tật xấu, tội lỗi, sai lầm mà đài nghiêm khắc phê phán. Ngược lại, khán giả nói chung, nhất là lứa tuổi trẻ nói riêng cũng dễ bắt chước cách nói, cách diễn đạt không chính xác, làm hỏng tiếng Việt như đã nêu ở trên của một số phóng viên và người dẫn chương trình đã và đang mắc phải. Tác hại vô hình ấy thật khôn lường, lây lan nhanh chóng từ người này sang người kia, lớp này sang lớp khác. Cứ thế, cứ thế, tuy “không làm chết người”, nhưng tác hại đó nguy hiểm vô cùng, vì nó góp phần làm cho khán giả, nhất là học sinh, sinh viên ngày càng nói sai, viết sai tiếng Việt.
Ngay từ tháng 10-1947, Bác Hồ đã chỉ cho mọi người biết mấy căn bệnh cần phải đề phòng và khắc phục, nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Người nói: “Nhiều người tưởng mình viết cái gì, nói gì, người khác cũng đều hiểu được cả. Thật ra hoàn toàn không như thế. Dùng cả đoạn chữ Hán, dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo kiểu Tây, mỗi câu dài dằng dặc thì quần chúng hiểu sao được… Tiếng ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng Trung Quốc, nhưng phải có chừng có mực. Tiếng nào ta sẵn có thì dùng tiếng ta”.
15 năm sau, tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (8-9-1962), Bác Hồ lại ân cần khuyên anh chị em làm công tác báo chí: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý giá của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp… Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải đầu óc quen ỷ lại hay sao?”
Cố Tổng Bí thư Trường Chinh cũng là một lãnh tụ, một nhà văn hoá đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ tiếng Việt. Trên báo Sự thật (tiền thân của báo Nhân dân), đồng chí đã phát động phong trào “Việt hoá lời nói và văn chương”. Bằng những thí dụ cụ thể, dí dỏm, đồng chí đã nghiêm khắc phê phán bệnh sính nói chữ và cái tật dùng sai chữ đang có xu hướng gia tăng ngay từ hồi ấy. Trên báo Sự thật số 104, ra ngày 19-12-1948, đồng chí Trường Chinh viết “ Cuộc kháng chiến này làm cho ta ghét cay ghét đắng những thói lai căng, mất gốc, theo đuôi người. Chúng ta phải cách mạng lối nói và viết của chúng ta hơn nữa. Phải kiên quyết bảo vệ tiếng mẹ đẻ, giữ cho lời văn, tiếng nói của ta trong sáng, noi theo Hồ Chủ tịch…”.
Ngày nay đọc lại, chúng ta cảm thấy những lời dạy quý báu trên của Bác Hồ và đồng chí Trường Chinh vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi và khẩn thiết biết bao cho mọi người nói chung và những người làm nghề viết nói riêng. Bất giác tôi nhớ đến lời báo động của V.I Lênin về tình hình báo chí nước Nga Xô-viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX: “ Chúng ta đang làm hỏng tiếng Nga. Chúng ta dùng những từ nước ngoài không cần thiết phải dùng. Chúng ta dùng những từ đó không đúng nữa… Chẳng phải đã đến lúc phải tuyên chiến với cái việc làm hỏng tiếng Nga đi như vậy hay sao!” (Xem “V.I Lênin bàn về vấn đề báo chí”, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970, trang 244).
Theo tinh thần của V.I Lênin và Bác Hồ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần khẩn trương bắt tay vào làm rất nhiều việc cụ thể, kiên quyết để ngăn chặn tình trạng một số người đang làm hỏng tiếng Việt. Có như vậy mới góp phân vào việc bảo vệ, gìn giữ, phát huy những tinh hoa của tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ thân yêu của người Việt Nam chúng ta.
Nguồn: Thế giới trong ta, số 241, 9/2005, tr 16-17








