Báo động chất lượng nước sinh hoạt
Ai quản lý chất lượng nước ăn uống?
Ở nước ta, Bộ Y tế đã thiết lập một mạng lưới từ Trung ương đến cấp huyện nhằm kiểm tra, giám sát chất lượng nước ăn uống. Tại trung ương, công việc này do cục Y tế dự phòng (YTDP) Việt Nam đảm nhiệm. Các viện chuyên ngành thuộc hệ YTDP. Viện VSDT Tây Nguyên, Viện Pasteur Nha trang, Viện Y tế công cộng TP Hồ Chí Minh hỗ trợ về mặt chuyên môn. Ngoài nhiệm vụ phối hợp triển khai và tiến hành các công trình nghiên cứu đánh giá tác động của môi trường (trong đó có môi trường nước) ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng…với hệ thống labo đươc trang bị khá hiện đại, các viện này có khả năng thực hiện và triển khai hỗ trợ kỹ thuật xét nghiệm cao về nước cho các trung tâm YTDP và các cơ quan khác khi có yêu cầu.
Tại cấp tỉnh, Trung tâm YTDP tỉnh có phòng xét nghiệm thực hiện việc giám sát chất lượng các nguồn nước cấp tập trung trên địa bàn tỉnh. Định kỳ, các cán bộ của trung tâm YTDP tỉnh đến các cơ sở cấp nước tập trung lấy mẫu và tiến hành xét nghiệm, hoặc tham gia thẩm định , xét duyệt các dự án cung cấp nước sạch của địa phương. Tại cấp huyện, Đội YTDP của trung tâm Y tế huyện thực hiện công tác giám sát và kiểm tra chất lượng nước ăn uống và sinh hoạt trên địa bàn huyện.
Về hệ thống pháp lý, Nhà nước cũng như các Bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định về việc quản lý, bảo vệ tài nguyên nước như luật về Tài nguyên nước (1998), Luật bảovệ môi trường (1993) Luật đất đai (1993) Luật khoáng sản (1996), Tiêu chuẩn Vệ sinh nước ăn uống (2002), Tiêu chuẩn nước sạch (2005)…
Giám sát chất lượng nước: Còn bỏ ngỏ
Trước năm 2002, có 3 tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng nước ăn uống được áp dụng song song nên đã dẫn đến hiện tượng chồng chéo và lúng túng trong việc áp dụng tiêu chuẩn. Ngày 18-4-2002, Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống và sinh hoạt theo quyết định số 1329/2002/BYT-QĐ để thống nhất áp dụng tiêu chuẩn trong việc giám sát chất lượng nước ăn uống. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này mới chỉ được áp dụng cho việc giám sát chất lượng nước ăn uống ở khu vực đô thị, với các cơ sở cấp nước có quy mô trên 500 dân.
Năng lực giám sát của các trung tâm YTDP tỉnh còn rất hạn chế, thường chỉ xét nghiệm được khoảng 10-15 chỉ tiêu giám sát nhóm A được quy định trong tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống1329/2002/BYT-QĐ và cũng mới chỉ được làm tốt tại các tỉnh và các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… các tỉnh còn lại hầu như không thực hiện giám sát này và không có chế độ báo cáo định kỳ về chất lượng nước. Hầu hết các chỉ tiêu giám sát nhóm B, C, thậm chí là cả một số chỉ tiêu nhóm A… các Trung tâm YTDP tỉnh chưa có đủ khả năng tiến hành xét nghiệm, nếu cần phải gửi lên Tổng cục Đo lường chất lượng hoặc các viện Trung ương thuộc hệ thống YTDP.
Việc giám sát chất lượng nước hàng tháng cũng không được thực hiện mà chỉ được thực hiện 3- 6 tháng, thậm chí một năm một lần, bởi các cơ sở cấp nước không có kinh phí dành cho hoạt động này. Việc giám sát chất lượng nước do các cơ sở cấp nước tư nhân cung cấp hoặc chất lượng nước của các giếng khoan hộ gia đình thì hoàn toàn thả nổi. Việc tiến hành các test định tính ngay tại chỗ bằng các bộ kít xét nghiệm nước đối với một số chỉ tiêu cơ bản và chỉ tiêu vi sinh cũng khó thực hiện bởi các hộ kinh doanh không biết đến, hoặc có biết cũng không biết mua bộ kít này ở đâu. Trong khi đó, các hộ kinh doanh nước quy mô nhỏ còn không áp dụng bất kỳ hình thức xử lý nước nào. Họ chỉ đơn giản bơm hút nước lên các bể chứa rồi phân phối lên các hộ gia đình thông qua mạng lưới đường ống. Việc khai thác nước ngầm bừa bãi của các hộ kinh doanh nước quy mô nhỏ còn làm cạn kiệt tài nguyên nước và gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Việc kiểm tra giám sát chất lượng nước ở cấp tỉnh thì như vậy, còn ở cấp huyện, cấp xã thì hầu như bị bỏ ngỏ vì cán bộ không đủ năng lực, phương tiện xét nghiệm thiếu và là tuyến y tế cơ sở nên các cán bộ y tế phải đảm nhiệm quá nhiều việc.
Nước: “Một phần tất yếu của cuộc sống”
Theo thống kê của Bộ Y tế: Có khoảng một nửa số bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm có liên quan tới nước sạch và vệ sinh môi trường. Điều này cho thấy cần phải tập trung hơn nữa cho việc cải thiện các điều kiện cấp nước và vệ sinh như là một trong những giải pháp đồng bộ nhằm từng bước giảm tỷ lệ mắc các bệnh này.
Tại Quyết định số 104/ 2000/ QĐ- TTg, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Y tế có trách nhiệm hoàn chỉnh và vận dụng bộ máy y tế cơ sở vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm vệ sinh nông thôn, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống, sinh hoạt, nhà tiêu hợp vệ sinh, đề ra các quy định về tái sử dụng phân người làm phân bón, tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn trên. Thực hiện chỉ đạo này, Bộ Y tế đã có Quyết định 1329/ 2000/ QĐ- BYT về Tiêu chuẩn vệ sinh đối với các nhà tiêu và quyết đinh số 09/2005/ QĐ- BYT về Tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch. Các tiêu chuẩn này sẽ là căn cứ cho các cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra, giám sát các nguồn nước phục vụ cho ăn uống và sinh hoạt, các công trình nhà tiêu hợp vệ sinh trong các chương trình cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn.
Trong thời gian tới, ngành y tế sẽ tập trung vào việc đào tạo các chuyên gia vệ sinh giỏi, tăng cường trang thiết bị hiện đại xét nghiệm chất lượng nước cho các labo, cho các viện chuyên ngành và Trung tâm YTDP tuyến huyện. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ tăng cường các biện pháp để quản lý, khai thác phát triển, bảo vệ và tái tạo chống cạn kiệt, ô nhiễm tài nguyên nước, tạo nền móng cho việc sử dụng nước bền vững.
Nguồn: quandoinhandan.org.vn 17/6/2006








