Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 25/06/2012 21:54 (GMT+7)

Bàn về mô hình đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội trong điều kiện tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập

Song nếu tổ chức được chi tiêu ngân sách nhà nước theo một kiểu cách nào đó thì cũng có thể xây dựng được mô hình nhằm mục tiêu khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn nói riêng và nghiên cứu khoa học công nghệ nói chung trong xu hướng nâng cao tính tự chủ tài chính của các tổ chức sự nghiệp khoa học - công nghệ công lập.

Quan niệm và phạm vi mô hình đầu tư tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội:

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thuật ngữ “mô hình”với nghĩa hẹp là mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà chế tạo ra sản phẩm hàng loạt; là thiết bị, cơ cấu tái hiện hay bắt chước cấu tạo và hoạt động của cơ cấu khác (của nguyên mẫu hay cái được mô hình hóa) vì mục đích khoa học và sản xuất. Nghĩa rộng là hình ảnh (hình tượng, sơ đồ, sự mô tả, v.v...) ước lệ của một khách thể (hay một hệ thống các khách thể, các quá trình hoặc hiện tượng). Khái niệm Mô hình được sử dụng rộng rãi trong triết học, tin học, kinh tế học, toán học, ngôn ngữ học và các khoa học khác.

Tiếp đến, trong ngành tin họcngành kinh tế, mô hình là một hệ thống các hệ thức toán học (Mô hình toán học), các quá trình vật lý (Mô hình vật lý) hay hình ảnh mang tính chất quy ước của đối tượng nghiên cứu, diễn tả các mối quan hệ đặc trưng giữa các yếu tố của một hệ thống thực tế trong tự nhiên, xã hội, v.v... Chẳng hạn, Mô hình kinh tế, Mô hình sản xuất, Mô hình chế tạo máy bay, v.v... Mô hình chỉ có ý nghĩa thiết thực nếu sự phân tích nó thuận tiện hơn cho người nghiên cứu trực tiếp đối tượng bằng những phương tiện hiện có.

Ngoài ra các chuyên ngành ( toán), ( ngôn ngữ) cũng sử dụng thuật ngữ mô hình, nhưng không là đối tượng xem xét ở đây.

Vì lẽ mô hình phải được xây dựng và đường đi của dòng tiền vào và ra khỏi mô hình phải được lượng hóa theo các tiêu chí nhất định. Có thể hiểu mô hình đầu tư tài chính là sự tập trung nào đó về tài chính thành Quỹ hay Tổng khoản tài chính nào đó để tiến hành cấp phát cho các hoạt động nghiên cứu khoa học.

Vậy nếu đặt ra vấn đề mô hình thì đó là kiểu tổ chức chi tiêu có lộ trình và khuôn khổ sau khi đã phân bổ ngân sách nhà nước cho các hoạt động khoa học và công nghệ từ một nguồn thống nhất nào đó. Điều này cần phải khẳng định. Theo đó có các Quỹ hay các nguồn tiền theo chuyên ngành hẹp của khoa học xã hội nhân văn và mỗi nguồn ấy có cách thức cấp phát chi tiêu và giải ngân riêng theo đặc thù, vậy coi đó là mô hình cũng là điều hợp lý.

Giả định và cân nhắc tính khả thi của một số mô hình đầu tư tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội

Cùng với quá trình xây dựng Chiến lược tổng thể phát triển khoa học xã hội Việt Nam gắn với Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2011 - 2020; Nhà nước cần phải đổi mới cơ chế quản lý đối với khoa học xã hội, trong đó có việc tìm kiếm và xây dựng mô hình đầu tư phát triển khoa học xã hội; đẩy mạnh và tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế dựa trên nền tảng ngoại giao đa phương để nâng cao năng lực và hiệu suất hoạt động của đội ngũ những người làm công tác trong lĩnh vực khoa học xã hội.

Thực tế là các lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội đã và đang chuyển dần từ chỗ chuyên ngành rộng sang chuyên ngành hẹp. Điều này là tất yếu diễn ra cùng với quá trình phát triển của bản thân ngành khoa học xã hội.

Theo tiến trình lịch sử phát triển nhân loại, nhận thức của con người được mở rộng dần cả trong lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Cho nên có khi người ta còn ví von một cách hình ảnh rằng khoa học như tấm gương lớn dần vỡ vụn ra, nó vẫn còn chiếu sáng được từ mặt gương nhỏ dần đó. Và nhiệm vụ của các thế hệ đi sau là phải làm cho các ngành, phân ngành và chuyên ngành khoa học hẹp vô số đó lớn dần lên để lại trở thành những tấm gương lớn hơn, đủ sức soi chiếu phản ánh, mô tả làm rõ hiện thực khách quan và có thể còn chiếu sáng cho cả nhân loại tiến bước chinh phục tự nhiên và xã hội phục vụ con người.

Thật vậy, chúng ta đã và đang chứng kiến sự chia nhỏ, phân nhánh của kinh tế học thành kinh tế học vĩ mô và vi mô..., lịch sử đại cương được mở rộng ra và chi tiết thành lịch sử theo các giai đoạn cổ đại, cận đại, lịch sử thế giới và đất nước, lịch sử vùng miền, lịch sử đấu tranh giai cấp, lịch sử ngôn ngữ, lịch sử tôn giáo, v.v... Một cách tổng quát có thể thấy như sau.

Hộp: Hình dung sơ bộ về phân loại các ngành KHOA HỌC XÃ HỘI

1. Nhân chủng học

2. Truyền tin học

3. Nghiên cứu về văn hóa

4. Kinh tế học

5. Giáo dục

6. Địa lý học nhân văn

7. Sử học

8. Tâm lý học

9. Ngôn ngữ học

10. Khoa học chính trị

11. Chính sách xã hội

12. Xã hội học

13. Phát triển (xã hội) học

14. Khoa học thư viện

...

Nguồn: wikipedia.org

Thực tế phát triển khoa học xã hội ở Việt Nam kể từ thời kháng chiến chống Pháp đến nay cũng vậy. Viện Khoa học xã hội ngày nay đã và đang thực thi chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách phát triển nhanh, bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tổ chức tư vấn chính sách và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học xã hội, tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội trong cả nước. Song các hoạt động khoa học xã hội của nước ta có được diện mạo như ngày nay theo hệ thống tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam là do Viện đã trưởng thành từ thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn. Ngày 2 tháng 12 năm 1953 tại Chiến khu Việt Bắc Chính phủ đã thành lập Ban Nghiên cứu Văn học, Lịch sử và Địa lý ( gọi tắt là Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa), đến đầu thế kỷ XXI đã ngày càng mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam quy mô lớn với 30 Viện nghiên cứu trực thuộc, 4 cơ quan sự nghiệp và 2 Nhà xuất bản.

Các Viện đó ngày càng mở ra theo hướng lan tỏa các chuyên ngành khoa học xã hội.

Hộp: Sự đan xen và kết hợp các môn khoa học xã hội và tự nhiên

Trên giác độ khác còn có sự thâm nhập và bổ sung cho nhau của các môn khoa học tự nhiên với xã hội, làm hình thành các môn khoa học mới, ví dụ toán kinh tế, toán tài chính, quy hoạch tài chính (financial programming), finance engineering, giải phẫu sinh lý học, thuật toán thống kê,...

Song có lẽ đây là chủ đề khác với mối quan tâm ở phần viết này, sẽ không dành bàn bạc, xem xét ở đây.

Thời gian qua, quá trình cấp phát và quản lý chi tiêu ở các chuyên ngành khoa học xã hội còn mang tính hành chính, gò bó dẫn đến không khuyến khích nâng cao hiệu suất, chất lượng các hoạt động, không bổ sung và bảo toàn cơ sở vật chất kỹ thuật khoa học và công nghệ ở nhiều nơi. Cơ chế xin - cho vẫn gây nên những bất cập không đáng có cho hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội. Trong những điều kiện đó xin thử đề xuất một số mô hình đầu tư phát triển khoa học xã hội như sau.

Mô hình 1: Đầu tư cho phát triển khoa học xã hội với các đề tài chỉ có thuần túy nghiên cứu lý thuyết.

Giống như trong một số môn khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa,...)chỉ ở phần lý thuyết, một số chuyên ngành và đề tài không cần đến phương tiện vật tư đắt tiền để tiến hành nghiên cứu, điều cần thiết về vật chất là văn phòng phẩm cho thực hiện quá trình nghiên cứu; ở đây chất xám được huy động là chủ yếu, cho nên việc cấp phát, chi tiêu và thanh quyết toán loại hình này cần được tổ chức theo kiểu riêng, với đặc thù của mình. Vậy đề xuất ở phần này là phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhất định nào đó không cần ghi tách bạch thành phần chi tiêu chính và phần ngân sách dự phòng. Chỉ yêu cầu lập dự toán sát với nhu cầu chi tiêu của đề tài trong phạm vi định mức hay định lượng định khoản chung với các đề tài tương tự. Một khi các khoản chi đã được xác định, nhà khoa học hay tập thể khoa học được quyền tự chủ chi tiêu theo chế độ tài chính chung của Nhà nước, không có sự cản trở hay can thiệp quá mức hành chính của bộ phận kế toán hay kho bạc Nhà nước. Điều này thể hiện rất rõ nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý chi tiêu. Trước hết dự toán theo thuyết minh đề tài đã rất chi tiết theo các văn bản hướng dẫn hiện hành (Thông tư số 44/2007/TTLT/BTC-BKHCN ngày 7/5/2007)và nếu được phê duyệt thì chúng ta đã trao niềm tin cho nhà khoa học, chúng ta không nên và không cần thiết phải sử dụng hoạt động của bộ máy kế toán tài vụ cơ quan chủ quản và kho bạc Nhà nước kiểm soát chặt chẽ như hiện nay đối với đề tài vì lẽ như thế là chúng ta không còn tin vào họ nữa khi chúng ta đã quyết định là chúng ta tin rồi (thông qua sự phê duyệt và chuẩn y của Hội đồng xét duyệt và thẩm định đề tài). Làm như hiện nay là chưa quán triệt tận gốc nguyên tắc tập trung dân chủ và thiếu niềm tin đối với nhà nghiên cứu một khi thông qua giấy trắng mực đen (giải trình thuyết minh dự toán được duyệt)chúng ta đã sử dụng quyền tập trung để tin tưởng họ rồi. Họ có được dân chủ thực hiện nhiệm vụ đã được giao một cách tập trung đó hay không là vấn đề cần được bàn luận thêm ở nhiều nơi.

Khi đổi mới và cải tiến như vậy, có lẽ nhà khoa học không còn bị gò bó chạy theo chứng từ và dự toán chi tiết. Họ vẫn phải tuân thủ nhưng mà chỉ là giải trình đối với quyết toán cuối năm hoặc với kiểm toán đề tài mà thôi. Khâu thủ tục giải ngân, kiểm tra trung gian giữa kỳ hoặc giải trình giải ngân đối với kho bạc hay bộ phận tài vụ cơ quan là khâu đã và đang gây quan ngại nhiều nhất ở các đơn vị nghiên cứu khoa học; thậm chí có nơi người ta không đăng ký làm đề tài hoặc trả lại kinh phí đã được duyệt cho nghiên cứu đề tài vì 2 lẽ: kinh phí quá thấp và thủ tục giải ngân bị vướng mắc, rườm rà ở nhiều cấp. Rõ ràng ở đây niềm tin vào nhà nghiên cứu đã bị sứt mẻ do chính cơ chế ràng buộc, mà điều này có thể cải tiến được.

Mô hình 2: Đầu tư cho phát triển khoa học xã hội về nghiên cứu lý thuyết và thí nghiệm hay khảo sát thực địa.

Mô hình đầu tư này có thể áp dụng cho các môn khoa học xã hội và đề tài nghiên cứu có yêu cầu sử dụng phương tiện thí nghiệm, vật tư máy móc hay các khảo sát thực địa (ngành hay đề tài về khảo cổ học,...), điều tra (ngành hay đề tài về tâm lý học, về quan hệ công chúng,...). Do vậy người viết đề xuất là cấu trúc của tổng chi đề tài nên được chia thành 2 phần gồm các khoản chi chính yếu và dự phòng. Giống như lâu nay, các khoản chi chính yếu vẫn được bố trí đầy đủ và vẫn bao gồm các khoản chi thí nghiệm, thử nghiệm, điều tra,... Song ở phần còn lại, các khoản dự phòng phải được thiết lập nhằm để tiến hành chi bổ sung cho đến ngưỡng cho các hoạt động thí nghiệm thử nghiệm, điều tra,.. nói trên.

Mô hình 3: Đầu tư cho phát triển khoa học xã hội có tính đến yếu tố chi phí kiểm tra kiểm soát, xuất bản và công bố công trình.

Trong việc đầu tư phát triển khoa học xã hội có chú ý đến bố trí dự khoản trong thuyết minh giải trình kinh phí nhằm mục tiêu đầu tư đến ngưỡng, một khoản tiền cần phân bổ nữa là kinh phí dành cho kiểm tra kiểm soát, xuất bản và công bố công trình.

Thực tế cần ràng buộc hơn nữa trách nhiệm cơ quan nghiên cứu khoa học đối với nội dung, tiến độ và kết quả của công trình đã giao phó cho Nhóm Nghiên cứu hay cho Người đứng đầu Nhóm đó. Nếu được bố trí kinh phí công khai thì việc nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng kiểm tra, kiểm soát hay các Hội đồng nghiệm thu sơ bộ và nghiệm thu cuối cùng cũng như các thành viên sẽ được đảm bảo.

Điều này quan trọng ở chỗ, cho đến nay dường như việc công bố công trình và xuất bản chưa được chú ý đúng mức đối với kết quả nghiên cứu khoa học xã hội. Mặt khác việc công bố quốc tế của lĩnh vực khoa học xã hội Việt Nam cũng còn ít, làm ảnh hưởng đến số lượng bài báo được đăng tải quốc tế nói chung của nền khoa học và công nghệ trong so sánh với nước ngoài, dẫn đến chỉ số công bố quốc tế chưa được cao, làm cho sự đánh giá hiệu quả nền khoa học đất nước bị sai lệch. Ngoài ra, đối với một số tạp chí chuyên ngành có uy tín quốc tế của nước ngoài, việc đăng tải bài ở đó đòi hỏi phải đóng phí, mặc dù có thẩm định khách quan và nghiêm ngặt; do vậy khi lập dự toán cho đề tài khoa học xã hội, cần bố trí dự phòng khoản tiền này. Nếu không đăng được thì khoản tiền đó sẽ bị xuất toán theo kết quả kiểm tra của kiểm toán Nhà nước.

Mô hình 4: Nhận tài trợ và vay tiền kể cả từ nước ngoài để tiến hành hoạt động khoa học xã hội.

Thực tế, có nhiều dự án hoạt động về nghiên cứu khoa học xã hội được tài trợ không hoàn lại từ nước ngoài (trực tiếp từ Chính phủ các nước và từ các tổ chức quốc tế lớn) cũng như từ các tổ chức NGO trong và ngoài nước. Đó có thể là nguồn tài trợ từ thiện hoặc vì mục đích cộng đồng. Song đến nay cũng đã xuất hiện cơ hội ở nhiều trường hợp vay tiền từ nước ngoài để tiến hành các hoạt động khoa học xã hội. Về phía mình Nhà nước cần nắm lấy cơ hội và xu hướng này để mở cửa hơn nữa và có sự quản lý phù hợp. Nếu có thể cho phép vay thì nên ở quy mô nhỏ và cũng có thể có bảo lãnh của Nhà nước, còn lại là nêu cao tinh thần tự chủ của đơn vị hay ngành khoa học xã hội đã vay theo kiểu thương mại, không được phép bảo lãnh của ngân sách Nhà nước. Chỉ bố trí và cho phép vay đối với các dạng hoạt động xã hội không liên quan đến các vấn đề nhạy cảm xã hội và chính trị, tôn giáo hay có hàm chứa bí mật quốc gia. Vì lẽ chúng ta đang ở trong giai đoạn chống diễn biến hòa bình và xâm nhập văn hóa độc hại, việc quản lý mô hình tài trợ này phải hết sức linh hoạt và tế nhị, mềm mỏng và cương quyết sao cho không tổn hại đến đường lối ngoại giao nhân dân, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại theo đường lối Đảng đã vạch ra.

Để thực hiện được mô hình tài trợ này sự vận động tuyên truyền là hết sức cần thiết để thực hiện bằng được phương châm xã hội hóa nguồn đầu tư cho phát triển khoa học xã hội vốn đã và đang được khuyến khích gần đây. Tiếp đến cần lưu ý rằng mỗi mô hình cần thực hiện công tác hạch toán kế toán với một số điểm khác biệt.

Hơn nữa để áp dụng được các mô hình nêu trên, tôi cho rằng nên tham khảo rộng rãi ý kiến các nhà khoa học thuộc lĩnh vực này, rồi sau đó lựa chọn nơi áp dụng thử, rút kinh nghiệm rồi sau ban hành chính thức, nếu có thể./.


Xem Thêm

Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Công nghệ mới trong xử lý chất thải góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam
Ngày 3/7, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Liên hiệp hội tỉnh Bắc Ninh và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức Hội thảo Phổ biến một số công nghệ mới có hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo người sản xuất, kinh doanh, hộ chăn nuôi và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.