Bàn về công năng trị hãn của hợp cốc và phục lưu
Cơ chế trị hãn của hai huyệt
Theo lý luận của học thuyết tạng phủ kinh lạc, hợp cốc là huyệt của thủ dương minh kinh. Thủ dương minh kinh tiếp với thủ thái âm kinh đi từ tay tới đầu men theo bờ ngoài chi trên, quy thuộc đại trường và liên lạc với phế. Thủ dương minh kinh và thủ thái âm kinh có quan hệ biểu lý, hợp với bì mao, hai kinh âm dương, biểu lý, tạng phủ hiệp đều với nhau cúng phát huy tác dụng. Nếu phế khí hư, vệ dương mất cố sẽ phát sinh tự hãn; nếu hàn khí ngoại thúc, mao khiếu bế tắc sẽ phát sinh vô hãn. Dùng nguyên huyệt hợp cốc của thủ dương minh kinh có thể điều hoà dinh vệ, phát biểu tán tà, làm cho bì tấu khai hạp hữu độ. Phục lưu là huyệt của túc thiếu âm kinh. Túc thiếu âm kinh tiếp với túc thái dương kinh, đi từ thận hướng tới bụng ngực, men theo trong chi dưới, quy thuộc thận và liên lạc với bàng quang, đồng thời liên hệ trực tiếp với tạng phế, can, tâm. Thận là thuỷ tạng, chủ tàng chân âm chân dương. Nếu thuỷ khuy hoả bất quy nguyên, âm hư hoả vượng, bức tân ngoại tiết sẽ dẫn đến đạo hãn; nếu hoả nhược khí hoá vô lực, dương hư nội hàn, không thể hoá tân vi hãn sẽ dẫn đến vô hãn. Dùng kim huyệt phục lưu của túc thiếu âm kinh có thể bồi bổ thận khí, tư âm nhiếp dương khiến âm dương tương hành tương tế. Như vậy, có thể thấy trên cơ thể, hợp cốc ở chi trên, kinh lạc tuần hành liên hệ với đầu mặt, phục lưu ở chi dưới, kinh lạc tuần hành liên hệ với ngực bụng. Hai kinh mạch lưu thông trên dưới, trong ngoài nhân thẻ và cùng liên hệ với phế là tạng chủ bì mao nên có thể lí hãn trị hãn. Hợp cốc thuộc dương chủ biểu, phục lưu thuộc âm chủ lý, hợp cốc lấy trị biểu chứng làm chủ, phục lưu lấy trị lý chứng làm chủ. Hai huyệt nếu dùng đơn độc đều có những nét đặc sắc riêng, nếu dùng phối hợp thì tương bác tương thành. Trên lâm sàng có thể dùng để phát hãn, cũng có thể dùng để chỉ hãn.
Khi dùng để phát hãn, thông thường là tả phục lưu, bổ hợp cốc như “lan giang phú” đã viết. Bởi vì mồ hôi không ra được là do vệ bế dinh uất dẫn đến. “Tố vấn. Mạch yếu tinh vi luận” viết: “dương khí hữu dư vi thân nhiệt vô hãn”. Tả phục lưu là để thanh tiết lý nhiệt, trừ bớt phần hữu dư, bổ hợp cốc là để thông dương sơ biểu khiến nhiệt theo mồ hôi mà giải đi. Trên lâm sàng còn có thể phối hợp với đại chuỳ, khúc trì để tăng cường tác dụng phong, thanh nhiệt, tán tà.
Khi dùng để chỉ hãn, thông thường là bổ phục lưu, tả hợp cốc. Bởi vì, mồ hôi ra nhiều hoặc do âm hư nội nhiệt, bức tân ngoại tiết, hoặc do phế khí hư nhược, vị ngoại bất cố dẫn đến. Theo ngũ hành, phục lưu thuộc kim là huyệt mẹ của túc thiếu âm thận thuộc thuỷ, vì vậy căn cứ theo nguyên tắc “hư thì bổ mẹ” nên phải bổ phục lưu để tư âm giáng hoả, bổ thận nhuận phế. Tả hợp cốc là để phát biểu tán tà, điều hoà dinh vệ. Đồng thời, theo kinh nghiệm của cổ nhân có thể còn phải phối hợp với nhiên cốc để thanh lý tiết nhiệt, phế du để bổ phế cố biểu. Tuy nhiên, trên lâm sàng cũng không nên câu nệ như vậy mà cần phải căn cứ vào tình hình bệnh tật cụ thể để biện chứng vận dụng thủ pháp bổ tả cho phù hợp.
Ứng dụng phối hợp các huyệt vị trên lâm sàng
Hãn chứng là do âm dương thất điều, dinh vệ bất hoà tấu lý khai hạp bất lợi gây nên. Trên lêm sàng có thể biểu hiện tự hãn, đạo hãn, hoàng hãn, thoát hãn, chiến hãn, cục bộ hãn... với những đặc điểm không giống nhau, trong đó tự hãn và đạo hãn là hay gặp hơn cả. Trên cơ sở dùng hai huyệt chính là hợp cốc và phục lưu có thể tuỷ theo các chứng mà dùng thêm các huyệt vị khác.
a) Tự hãn
ChuĐan Khê viết: “tự hãn thuộc khí hư, thuộc thấp dữ nhiệt”. Nếu do phế vệ khí hư, tấu lý bất cố mà dẫn đến ra mồ hôi, sợ lạnh thì nên dùng hợp cốc kết hợp với liệt khuyết, thái uyên, bách lao. Vì thủ thái âm phế là kinh đa khí, dùng nguyên huyệt thái uyên có thể bổ ích phế khí; dùng lạc huyệt liệt khuyết thuộc âm có thể tuyên phế khu phong, sơ thông kinh lạc, thông điều nhâm mạch; phối hợp với nguyên huyệt hợp cốc của thủ dương minh kinh có thể điều hoà dinh vệ; dùng bách lao là huyệt kinh nghiệm để chỉ hư hãn. Bốn huyện này hợp dùng có khả năng ích khí cố biểu chỉ hãn. Nếu người có chứng biểu hư, vì cảm phong tà, biểu hiện ra mồ hôi mà sợ gió thì ngoài 4 huyệt nêu trên có thể dùng thêm khúc trì, ngoại quan để tăng cường tác dụng sơ phong tán tà. Nếu vị nhiệt lâu ngày, nhiệt chưng ngoại việt, tấu lý khai tiết mà gây ra mồ hôi nhiều thì nên dùng huyệt huỳnh nội đình của túc dương minh kinh phối hợp với phục lưu, hợp cốc để thanh lý tiết nhiệt, cố biểu chỉ hãn.
b) Đạo hãn
ChuĐan Khê viết: “đạo hãn thuộc huyết hư âm hư”. Nếu tâm huyết bất túc, tâm dương chưng tân ngoại tiết sẽ thấy tâm quý đạo hãn, lưỡi đỏ khô’ nếu vì phế thận âm hư, hư hoả nội xí sẽ thấy triều nhiệt đạo hãn, ngũ tâm phiền nhiệt. Điều trị nên tư âm giáng hoả. “Bách bệnh phú” viết: “âm khích, hậu khê, trị đạo hãn chi xuất”. Âm khích là khích huyệt của thủ thiếu âm kinh hợp dùng với phục lưu có thể dưỡng âm thanh tâm khiến cho thuỷ hoả tương tế. Hậu khê là huyệt của thủ thái dương kinh với thủ thiếu âm kinh là quan hệ biểu lý, lại là bát mạch giao hội huyệt, thông với đốc mạch, hợp dùng với hợp cốc có theer thông dương tiết nhiệt, liễm hãn cố biểu.
Còn đối với các hãn chứng khác như hoàng hãn, thoát hãn, chiến hãn đều phải tiến hành biện chứng luận trị, tuân thủ nguyên tắc bổ hư, tả thực để chọn huyệt.
Nguồn: T/c Đông y, số 351, 25/7/2003, tr 11