Bản sắc văn hoá Việt Nam – Nền tảng của những chiến thắng quân sự
Những điều này đâu phải của riêng người Việt? Nếu giải thích bằng địa hình cũng thế, thậm chí về địa hình Việt Nam còn thua nhiều nước khác. Sở dĩ nước Việt Nam là nước không ai đồng hóa được là vì truyền thống quân sự Việt Nam bắt nguồn từ chính truyền thống văn hóa Việt Nam và truyền thống ấy có một nguồn gốc vật chất do đất nước, cách sinh sống, xã hội Việt Nam tạo ra qua bao đời nay. Khi nào quân sự theo đúng truyền thống ấy thì thắng lợi, còn nếu rời bỏ truyền thống ấy thì thất bại, nước mất nhà tan.
Về mặt địa lý - kinh tế nước Việt Nam có một đồng bằng bé nhỏ phải nuôi một số dân quá khả năng sản xuất của nó. Ngoài ra là rừng núi. Rừng núi, cũng như các cao nguyên, các đồng cỏ của Việt Nam đều không tiện cho chăn nuôi, trồng trọt. Việt Nam không có nghề chăn nuôi quy mô lớn, và ngoài cây lúa ra không có nghề trồng trọt gì quan trọng. Cách sống của người dân từ hàng ngàn năm nay là nông nghiệp kết hợp với hái lượm (vườn), chăn nuôi quy mô nhỏ (lợn, gà, bắt cá trong ao). Lối sống " vườn, ao, chuồng" ngày nay chỉ là công thức hóa, nâng cao cách sống ngày xưa. Đồng bằng thất thường, hạn, lụt liên miên. Khí hậu thay đổi theo mùa.
Về địa hình, một bờ biển dài địch đánh vào đâu cũng được, những đồng bằng ven biển rất hẹp, bị chia cắt dễ dàng, còn châu thổ sông Hồng thì chịu địch bốn mặt. Không kể đời Lý, lần nào quân địch đánh cũng chiếm được Thăng Long.
Về tâm thức dân tộc: Nhân dân yêu hòa bình, cần hòa bình để cày cấy. Không có truyền thống sống bằng chiến tranh. Trái lại, có truyền thống trọng văn khinh võ: "Quan văn thất phẩm đã sang; quan võ thất phẩm còn mang đai cờ". Có chiến tranh, nhân dân xông ra chiến đấu, sau đó lại trở về đồng ruộng. Số quân của triều đình bé nhỏ vì khả năng kinh tế của triều đình có hạn.
Cần phải nhìn chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong một hoàn cảnh có vẻ bất lợi như vậy mới thấy được cái lớn của truyền thống văn hóa quân sự và cái lớn của truyền thống văn hòa làm nền tảng cho truyền thống văn hóa quân sự này.
Trước hết, nói đến lòng yêu nước của người Việt. Điều này là xuất phát từ một nguyên nhân vật chất. Từ xa xưa, đồng bằng Bắc Bộ đã phải chịu đựng một sự bùng nổ dân số. Nghề trồng lúa nước đòi hỏi những cánh đồng rộng mà những thung lũng ven sông suối trong đó người Thái hiện nay còn canh tác không đủ nữa. Người dân phải lao xuống đồng bằng vào thời đồ đồng, chiến đấu với sông với biển ngay khi đồng bằng còn chưa hình thành. Không thể chờ đợi phù sa các con sông làm cho đồng bằng bằng phẳng, xong xuôi vào thời đồ sắt như các nước Đông Nam Á khác, mà họ phải đắp những con đê nhỏ nối liền các vùng đất cao để có ruộng mà cấy lúa, lại phải đào sông đưa nước ra biển, đắp đê lấn biển để có được đất, rồi phải đắp đê phòng lụt. Chính đồng bằng là sản phẩm do họ tạo ra. Kết quả hiện nay còn rất rõ là những vùng đất trũng như ở Hà Nam . Khi miếng đất trên đó là do chính họ tạo ra, họ không thể để cho ai chiếm lấy nó được. Tổ quốc Việt Nam là sở hữu của nhân dân Việt Nam, cái vật họ kéo lên từ biển cả, và phải đấu tranh giữ nó hết năm này sang tháng khác, chống hạn, chống úng, chống lụt cho đến ngày nay. Các làng không phải là nơi cứ đến là có đất, mà là nơi phải chiến đấu không ngừng chống thiên nhiên để có được miếng ăn.
Nghề trồng lúa nước bắt con người phải chủ động. Loại cây này đòi hỏi một lượng nước lớn mà thiên nhiên không thể cung cấp theo đúng chu kỳ sinh học của cây lúa. Người dân phải tát nước khi thiếu nước và tháo nước khi thừa nước. Để làm hai việc này, phải có một đơn vị cao hơn gia đình mới điều hòa được quyền lợi vì dù tát hay tháo, nước có thể chảy qua ruộng người khác khi họ không cần. Do đó, nảy sinh tinh thần đoàn kết tương trợ giữa những người cùng làng, rồi tinh thần này được củng cố thêm bởi văn hóa, phong tục, thờ cúng. Con người trong làng được hưởng ruộng công của làng, được bàn việc làng. Họ có diện mạo và thân phận không phải như người nông nô tồn tại đơn thuần là dựa vào sở thích của lãnh chúa. Mặt khác, việc phải đắp đê cho toàn bộ sông Hồng lại đòi hỏi phải có một chính quyền thống nhất và duy nhất. Người ta đã tìm được những ngôi mộ thời Đông Sơn trên nền đê sông Hồng. Việc chống lũ lụt tạo nên tinh thần đoàn kết của nhân dân, một tinh thần đoàn kết sống còn bắt rễ vào máu thịt.
![]() |
Bây giờ xét cơ sở văn hóa của truyền thống yêu nước rất độc đáo của Việt Namđể thấy cái nét khu biệt của tinh thần yêu nước Việt Nam so với các nước khác, mặc dầu dân nước nào mà chẳng yêu nước của mình.
Việt Nam vào thời tiền sử là một nước thuộc văn hóa Đông Nam Á thì dĩ nhiên quan niệm về nước thời tiền sử không khỏi mang đậm ảnh hưởng của văn hóa Đông Nam Á. Câu này của các sử gia Trung Quốc cần được đọc theo phiên âm mới đúng với văn hóa Đông Nam Á mà hiện nay ta còn thấy phổ biến ở người Tày Thái: "Vua gọi là "vua nác" (lạc vương, người Nghệ Tĩnh hiện nay còn gọi nước là nác), tướng gọi là "tướng nác" (lạc tướng), người cai trị gọi là "hầu nác" (lạc hầu), con trai gọi là "con lang" (quan lang), con gái gọi là "mê nàng" (mị nương), chế độ cai trị theo "ph'tao" (pụ đạo, chế độ ph'tao còn ơ Tây Nguyên, ở vùng Tày - Thái có phìa tạo). Cách dùng chữ "gọi là" chứng minh không thể chối cãi rằng chữ Hán là để phiên âm tên gọi địa phương. Khi còn thuộc phạm trù văn hóa Đông Nam Á thì ông vua không phải là ông vua như sau này mà chỉ là người có uy tín nhất, được các phìa tạo tôn xưng và phục tùng, nhưng các phìa tạo vẫn độc lập trong lãnh thổ của mình. Một cuộc chống ngoại xâm có được liên minh của các vùng và do đó thắng lợi, nhưng sau đó lại tách ra ai lo đất người ấy, cho nên thiếu sức mạnh để chóng lại những cuộc xâm lăng mới. Các cuộc khởi nghĩa từ thời Hai Bà Trưng trở về trước đều thất bại là vì thế.
Chính Đinh Bộ Lĩnh là người mở đầu cho sự ra đời của một nhà nước kiểu mới, kiểu hiện đại. Từng yếu tố một đã hình thành dần dần từ trước, nhưng đến đời Đinh mới tạo thành một ý thức dân tộc trọn vẹn.
Có năm yếu tố căn bản
Trước hết, phải có một hệ thống tư tưởng thống nhất. Đó là đạo Phật. Tình hình này là chung cho Đông Nam Á lục địa, cho nên không phải ngẫu nhiên mà sử xưa nhận xét rằng quá nửa con trai lớn lên đều vào chùa một thời gian. Đây là tình hình chung của Đông Nam Á lục địa cho đến ngày nay. Chỉ từ thời Lý trở đi nhà nước mới chuyển dần sang hệ tư tưởng Nho giáo.
Sở dĩ hệ tư tưởng Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tương thống trị vì nó hết sức cần để bảo vệ thống nhất đất nước chống lại kẻ thù phương Bắc. Quy luật bảo vệ thống nhất độc lập của một nước nhỏ trước một nước lớn hơn, mạnh hơn, văn hóa cao hơn là: chuyển văn hóa cũ theo văn hóa mới, tiếp nhận văn hóa để chống lại sự nô dịch về chính trị. Thực chất Nho giáo Việt Nam là thế. Và chính Nho giáo cung cấp thêm bốn yếu tố tiếp theo để xây dựng một dân tộc, một nhà nước kiểu mới.
Hai là, văn tự thống nhất làm nền tảng cho sự cai trị, đó là chữ Hán.
Ba là, một cách cai trị thống nhất: chế độ vua chúa cha truyền con nối, không có sự can thiệp của tôn giáo.
Bốn là, chế độ tuyển mộ quan lại chỉ căn cứ vào học vấn, chung cho mọi tầng lớp, không phân biệt giàu nghèo, gia thế. Một chế độ cai trị đơn thuần dựa trên quyền sống của người dân.
![]() |
Cả bốn yếu tố sau đều bắt nguồn từ Nho giáo, nhưng đều bị hoán cải theo tinh thần văn hóa Việt Nam . Người Việt Nam chỉ tiếp nhận một bộ phận của Nho giáo để củng cố độc lập của mình chứ không thông qua tiếp xúc trực tiếp: cha ông ta bút đàm chứ không giao dịch bằng ngôn ngữ.
Chính những yếu tố này đã góp phần tạo nên tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam .
Nếu chỉ xét các cuộc kháng chiến chống xâm lược thành công làm thành truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc và đã đem đến thắng lợi, làm thành bài học cho đời sau, thì đó là truyền thống chiến đấu vì bất đắc dĩ của một hình thức đặc biệt của chiến tranh nhân dân (toàn dân kháng chiến, toàn quốc kháng chiến, toàn diện kháng chiến), cốt giành lấy trái tim hơn giành lấy đất, thành trì bào vệ Tổ quốc là nhân dân, không ở thành lũy, không có cắt đất cầu hòa, không dùng đại quân đánh ngay một trận được thua với địch ngay từ đầu mà biết né tránh mũi nhọn, đánh bại địch ở nơi mình chuẩn bị trước hay ở nơi địch bị lâm vào thế bị động, phá thế chủ động của địch bằng đủ mọi cách, lấy thế thắng lực, lấy chính nghĩa thắng bạo quyền. Hình thức chiến tranh nay rõ rệt xuất phát từ văn hóa dân tộc. Trần Hưng Đạo đã ý thức được nó khi nói: " nếu quân địch đến ồ ạt thì không đáng sợ, nhưng nếu nó đi con đường tằm ăn lá dâu thì đáng sợ".
Đã có hai lần chúng ta kông theo truyền thống này và dẫn tới hai lần nội thuộc khiến nhân dân bắt buộc phải tiến hành một cuộc kháng chiến trường kỳ cực kỳ gian khổ theo đúng truyền thống quân sự dân tộc mới giành lại được độc lập.
Lần thứ nhất vào thời nhà Hồ, lo giữ thành, dốc chủ lực đánh trong khi chưa tạo được cho nhân dân một sự thống nhất về tư tưởng; những chủ trương cải cách bị thi hành lệch lạc gây rối loạn trong nhân dân.
Lần thứ hai vào nửa thế kỷ XIX, cắt đầu cầu hòa, chống lại nhân dân khởi nghĩa chống Pháp, lo xây dựng thành quách tốn bao công của mà vô dụng, bụng cầu hòa mà lại không chịu đổi mới, lại còn muốn dùng ngoại giao để khiến địch rút quân.
Như vậy là có truyền thống mà từ bỏ truyền thống, cho nên thất bại.
Trong thiên niên kỷ thứ hai, truyền thống quân sự Việt Nam được thể hiện nổi bật qua các cuộc kháng chiến dưới đây:
1.Kháng chiến bảo vệ Tổ quốc của đời Lý.
2.Kháng chiến đánh bại quân xâm lược của đời Trần.
3.Kháng chiến trường kỳ để giải phóng dân tộc của Lê Lợi.
4.Chiến tranh thần tốc đại phá quân Thanh của Quang Trung.
5.Chiến tranh nhân dân với quy mô lớn nhất có ý nghĩa thế giới trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đánh bại hai chủ nghĩa thực dân có tác động đến thế giới là chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, dẫn tới sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân và mở đường cho lịch sử thế giới hôm nay trong hòa bình, hợp tác, hữu nghị, phát triển.










