Ba cái khó của công tác quy hoạch
Chúng ta đã trải qua 7,8 lần quy hoạch Thủ đô, tính từ khi đất nước mới giải phóng được một nửa (1954) đến nay, với những tầm nhìn và chiến lược phát triển khác nhau, xuất phát từ yêu cầu chính trị khác nhau. Nhìn chung lần quy hoạch nào cũng đáp ứng được một số nhu cầu cấp bách của cuộc sống, sản xuất đang phát triển. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân khiến quy hoạch đô thị Hà Nội luôn luôn bị động trong điều chỉnh.
Có thể sơ bộ nhận thấy, đó là :
1. Tầm nhìn tại các thời điểm làm quy hoạch bị hạn chếdo không lường trước được những biến động của tình hình kinh tế xã hội thời chiến tranh cũng như thời hội nhập.
2. Công tác quản lý bộc lộ nhiều yếu kém, do trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý không hoặc chưa được đào tạo để quản lý đô thị, do “Tư duy nhiệm kỳ”, hoặc cũng có thể do tư lợi cục bộ hoặc cá nhân …
Khi làm quy hoạch 1998 chúng ta đặt tầm nhìn đến năm 2020 về dân số, kinh tế, xã hội và nhiều thông tin khác cần cho sự tính toán quy hoạch đất đai, song thực tế mới qua 5 năm thực hiện (2003), nhiều con số được tính toán theo tầm nhìn đã bị lạc hậu trước thực tế cuộc sống. Những diễn biến khách quan của cuộc sống thời hội nhập buộc nhà quản lý phải điều chỉnh lại quy hoạch để phù hợp với tiến trình phát triển là đương nhiên, song chính sự quản lý yếu kém, hoặc tư duy “ăn sổi” đối với quy hoạch khiến quy hoạch bị méo mó mới là điều đáng trách. Quy hoạch vạch rõ từ đường VĐ 2 trở vào trung tâm là khu hạn chế phát triển, tuy nhiên quá trình quản lý sau quy hoạch, mỗi nhiệm kỳ lãnh đạo lại “tuỳ nghi dúi” các công trình cao tầng vào các ô đất trống nhỏ hẹp nhưng sinh lời cao trong khu vực được quy hoạch cảnh báo. Điều đó không chỉ làm tăng mật độ dân số trong khu hạn chế phát triển mà còn khiến hệ thống hạ tầng kỹ thuật cũ bị quá tải. Những ví dụ như vậy về sự “gậm nhấm” trong quá trình quản lý xây dựng sau quy hoạch có thể còn liệt kê thêm nữa, nó làm cho mọi quy hoạch dù được tính toán khoa học, kỹ lưỡng, chi ly bao nhiêu cũng sẽ bị phá sản.
3. Ngoài hai nguyên nhân dễ thấy, cũng dễ …chẳng có ai chịu trách nhiệm như trên thì còn một nguyên nhân thứ ba không biết thuộc loại khách hay chủ quan? Đó là việc làm quy hoạch đã khó, tốn nhiều thời gian, trí lực bao nhiêu thì việc đưa quy hoạch vào cuộc sống và khớp nối các quy hoạch chi tiết của các dự án với nhau và với quy hoạch chung còn khó hơn gấp nhiều lần.
Mọi bản vẽ quy hoạch sau khi phát hành đều đã “cân đong đo đếm” chi ly mảng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Song thực tế hai mảng rất quan trọng cho hoạt động của đô thị này lại thường được thực hiện sau các mảng sinh lời tức thì của các dự án. Sự chậm chễ thực hiện hai mảng quy hoạch “Xương sống” của đô thị này được cho là vì thực hiện bằng vốn ngân sách nhà nước, nhiều thủ tục và đôi khi còn khó kiếm ra nguồn vốn đầu tư ? Vì thế càng triển khai nhiều dự án (vốn xã hội hoá), càng rối loạn mảng hạ tầng kỹ thuật, càng cảm thấy như “đói” các công trình công cộng dịch vụ xã hội (do các chủ đầu tư ... hay bỏ quên)!
Các dự án đôi khi phải tự tìm cách thoát thân bằng cách nước thải gần mương đổ ra mương, gần sông đổ ra sông, gần đường quốc lộ, tỉnh lộ nào thì cứ nối bừa giao thông nội bộ vào bất cứ đoạn nào miễn là lưu thông hàng hoá tạm đã ! các dự án không biết đấu nối hạ tầng kỹ thuật với hệ trục ở đâu (vì đã có đâu mà đấu nối), mặc dù bản vẽ quy hoạch chi tiết nào cũng chỉ hướng cho mảng hạ tầng kỹ thuật đi về đâu, nối ở đâu…
Có khi bản vẽ quy hoạch chưa phát hành, hàng trăm dự án đã thực hiện ngoài thực địa do nhu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, không thể chờ quy hoạch. Vì vậy bản vẽ quy hoạch chỉ mang tính chất minh hoạ hoặc hợp pháp hoá các dự án đã triển khai trước đó. Qúa trình làm quy hoạch kiểu này, các đơn vị tư vấn thường xuyên phải cập nhật các dự án vào quy hoạch, do đó ý tưởng học thuật của quy hoạch dễ bị méo mó. Vả lại, đó chỉ là cập nhật vẽ trên giấy, còn ngoài thực địa việc khớp nối các dự án với nhau và với quy hoạch chung luôn bức xúc, lộn xộn, không kiểm soát được. Đô thị luôn bị “cát cứ” (hoặc băm nát) về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
Thực tế hơn nửa thế kỷ đã qua, khi diện tích Hà Nội chỉ hơn 900km 2, nhiều bản quy hoạch giao thông của Hà Nội vẽ các đường vành đai, được đưa vào triển khai xây dựng, song đến nay tất cả đều còn dang dở, hàng ngàn dự án lớn nhỏ vẫn đã và đang “đấu nối lung tung”, giao thông đô thị luôn luôn bị ách tắc. Hình ảnh đô thị hình như vẫn thấy manh mún, lộn xộn !
Quy hoạch chung Hà Nội mở rộng với diện tích trên 3000km 2sẽ còn trong tình trạng nặng nề hơn khi khớp nối các dự án theo tiêu chuẩn cấp tỉnh của Hà Tây với cấp đặc biệt của Thủ đô, khớp nối mảng hạ tầng kỹ thuật (mới trên ý tưởng) của liên danh tư vấn với 241/744 dự án đã triển khai từ hàng chục năm nay, vừa được xét tiếp tục triển khai, khớp nối giữa ý tưởng “cây xanh- văn hoá-mặt nước” với sự manh mún về kiến trúc của các dự án…, nghĩa là riêng công việc khớp nối các dự án đã triển khai để ăn nhập với những ý tưởng lớn như 234 trang thuyết minh báo cáo lần thứ ba với cấp thẩm quyền còn phải tốn nhiều công sức, tiền của và thời gian cả thế kỷ./.








