Áp dụng thể chế giám quản các dự án xây dựng công ở Việt Nam
Hiện nay, xây dựng công ở nước ta chia thành 2 nhóm: Nhóm A gồm các dự án công trình công ích nhóm này có hai phân nhóm chủ yếu đó là phân nhóm 1 bao gồn các dự án xây dựng hạ tầng kinh tế như giao thông, thủy lợi, công trình thị chính; nhóm 2 bao gồm các dự án xây dựng hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, công sở. Nhóm B gồm các dự án công trình kinh doanh có thu hồi vốn như nhà máy điện, thủy điện, lọc dầu, khí – điện – đạm, đóng tàu….
Các yếu kém của dự án xây dựng công thuộc nhóm A bao trùm cả ba giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành – bảo trì. Hiệu quả của dự án nhóm A chủ yếu được đánh giá bằng tác động của nó đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia và cải thiện phúc lợi xã hội.
Theo TS Liêm cho biết, hiện các nước phát triển đánh giá hiệu quả dự án nhóm A không còn chỉ bằng phân tích định tính mà chủ yếu là thông qua “phân tích chi phí – lợi ích”, trong đó lợi ích kinh tế - xã hội do dự án đem lại được định lượng thành tiền, còn chi phí thì được tính cho cả vòng đời dự án, gồm cả chi phí xây dựng và chi phí vận hành – bảo trì. Tỷ số giữa giá trị lợi ích và chi phí vòng đời là một tiêu chí để lựa chọn phương án khi ra quyết định đầu tư. Các dự án công của Việt nam chưa áp dụng phương pháp phân tích định lượng này, còn hiệu quả đầu tư thì chỉ đánh giá lấy lệ nhằm thuyết minh sự đúng đắn của ý chí cấp chủ quản khi muốn có dự án đầu tư
Trong đầu tư xây dựng công nước ta, do tình trạng “khép kín” và do sự chi phối của “lợi ích nhóm” nên công tác quản lý dự án thường được giao cho các công chức không phải là nhà quản lý chuyên nghiệp. Cũng có những ban quản lý dự án có trình độ nghiệp vụ khá nhưng lại khó đảm bảo chuẩn tắc đạo đức nghề nghiệp, nhiều khi phải hành động theo chỉ đạo sai trái của cấp trên. Chính vì vậy, mà các ban quản lý dự án phân nhóm 2 càng yếu kém hơn về năng lực do khó tuyển dụng được kỹ sư có kinh nghiệm, vì rằng các kỹ sư này không mặn mà với công việc “thời vụ” xong việc rồi chưa biết về đâu, cho nên chỉ tiếp nhận được những kỹ sư kém cỏi mà các đơn vị đang sử dụng sẵn sàng cho chuyển đi với những lời giới thiệu tốt đẹp kèm theo.
Để tránh những tình trạng trên, nhiều ban quản lý dự án thuê tư vấn giám sát chất lượng, đôi khi cả khối lượng, của một số công ty tư vấn giám sát. Nhưng do ban quản lý không thạo việc còn phần lớn các công ty tư vấn giám sát lại nhỏ bé và yếu kém nên nhiều kỹ sư giám sát biệt phái đến hiện trường làm việc tắc trách, nhận “bôi trơn” để xác nhận khối lượng khống và bỏ qua các thiếu sót về chất lượng thông thường hoặc nhiều năm sau mới có thể phát hiện.
Cũng như công tác quản lý dự án công, công tác tổ chức giải phóng mặt bằng đất đai cũng rất thiếu chuyên nghiệp và minh bạch. Theo quy định pháp luật thì công tác này giao cho chính quyền cấp huyện tổ chức thực hiện. Tình trạng thiếu tính chuyên nghiệp và làm việc theo giờ giấc chính quyền của ban quản lý dự án và ban giải phóng mặt bằng đã làm cho việc giao mặt bằng xây dựng các dự án công bị chậm tiến độ nặng nề và bị vượt mức đầu tư khá lớn. Điều nghịch lý là tiến độ xây dựng bị chậm gây thiệt hại đến lợi ích công nhưng lại phù hợp với lợi ích tư của một số nhân viên quản lý, vì nhiều người khó tìm được công việc mới sau khi công trình xây dựng hoàn thành.
Theo TS Liêm, để thực hiện mũi đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và phát triển ngành xây dựng đạt trình độ khu vực đã đến lúc Việt Nam cần triển khai áp dụng thể chế giám quản cho các dự án xây dựng, trước hết là cho các dự án xây dựng công.
Muốn vậy, mong rằng các nhà làm chính sách xây dựng tiếp tục đổi mới tư duy, tìm hiểu cụ thể kinh nghiệm quốc tế, rồi xây dựng khung pháp lý để đưa thể chế này vào ngành xây dựng nước ta, trước mắt là trình Chính phủ ra Nghị định về Giám quản dự án công để thực hiện khoản 2a Điều 45 và khoản 3 Điều 87 Luật Xây dựng, rồi tiếp tục nghiên cứu để trình Quốc hội đưa vào các Luật Xây dựng và Luật Đầu tư công. Mặt khác, cần tổ chức soạn thảo đề cương bồi dưỡng nghiệp vụ giám quản, giúp đỡ thành lập Hiệp hội Giám sát xây dựng và trao cho Hiệp hội này quyền tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát và xét cấp chứng chỉ hành nghề giám quản.
Để có ngay một lực lượng giảm quản đủ sức đảm đương công việc, đề nghị sớm chuyển các Ban quản lý dự án thuộc các bộ chuyên ngành như Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải… thành công ty cổ phẩn giám quản xây dựng kèm theo việc đào tạo lại nguồn nhân lực.








