An ninh ở biển Đông và quan hệ Việt – Trung
1. Tầm quan trọng của Biển Đông và những hành động của Trung Quốc
Biển Đông là khu vực biển có vị trí địa chiến lược rất quan trọng, có diện tích 1,7 triệu km 2với trên 200 đảo nhỏ, đá, bãi đá không thể cư trú. Biển Đông giáp giới với Trung Quốc và Đài Loan ở hướng bắc, Việt Nam ở hướng tây, Malaysia, Bruney, Indonesia và Singapore ở hướng nam và tây nam và Philippines ở hướng đông. Biển Đông được đánh giá là có tài nguyên phong phú, nguồn dầu khí dồi dào, do đó có liên quan đến quyền, lợi ích của Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nước Đông Nam Á cũng như nhiều nước khác. Đó là chưa kể vị trí chiến lược của Biển Đông trong tự do hàng hải, hàng không của khu vực và quốc tế. Vì vậy, nơi đây thời gian qua đã nảy sinh nhiều loại tranh chấp khiến cho vấn đề an ninh ở Biển Đông, tiềm ẩn từ nhiều thập kỷ nay, lại nổi lên khá gay gắt. Thậm chí, khu vực này đã từng có những cuộc xung đột vũ trang, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
Ngay từ năm 1956 Trung Quốc đã cho quân chiếm đóng nhiều đảo trong quần đảo Hoàng Sa và năm 1974 Trung Quốc đã dùng lực lượng quân sự áp đảo đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Đến năm 1988, Trung Quốc lại dùng lực lượng quân sự đánh chiếm một số đảo, bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa do Việt Nam đang quản lý, giết hại 64 quân nhân Việt Nam. Tiếp đó, năm 1995, Trung Quốc cũng đã chiếm đảo Vành Khăn do Philippines quản lý và đến năm 1999 cho xây dựng các đồn bốt quân sự trên đảo này. Mấy năm gần đây, cùng với đà lớn mạnh nhanh chóng về kinh tế cũng như quân sự, Trung Quốc cũng gia tăng các hoạt động bất chấp pháp luật quốc tế nhằm độc chiếm Biển Đông, biến nơi đây thành “ao nhà”của mình với tham vọng của một cường quốc mới nổi.
Ngày 07 - 05 - 2009, Trung Quốc gửi Công hàm tới Liên hợp quốc, chính thức công khai yêu sách chủ quyền 80% diện tích Biển Đông theo bản đồ đường 9 đoạn, hình chữ U, còn gọi là “đường lưỡi bò”, do họ tự ý vạch ra không dựa trên luật pháp quốc tế, mà chỉ nói về nó một cách mơ hồ là dựa trên “căn cứ lịch sử”.
Không chỉ đơn phương tuyên bố chủ quyền hầu hết Biển Đông, Trung Quốc đang dùng vũ lực một cách giới hạn nhằm ngăn chặn Việt Nam, Philippines thăm dò địa chất và đánh bắt hải sản ở vùng Đặc quyền kinh tế theo Luật Biển quốc tế nhưng có chồng lấn với đường chữ U do họ đưa ra. Cùng với đà tăng cường sức mạnh quân sự, Trung Quốc đã đi từ chính sách “giấu mình chờ thời”sang đòi hỏi “lợi ích cốt lõi”ở Biển Đông. Hành động của Trung Quốc ngày càng quyết liệt, có tính chất gây hấn với các nước láng giềng quanh Biển Đông, nhất là với Việt Nam và Philippines để khẳng định chủ quyền trong phạm vi “đường lưỡi bò”hết sức phi lý và ngang ngược. Trong thời gian chưa đầy 4 tháng (từ tháng 3 đến tháng 6 - 2011), Philippines đã có văn bản ghi nhận 7 sự cố liên quan tới việc tàu Trung Quốc xâm nhập vùng lãnh hải tranh chấp và tấn công các tàu của Philippines. Chỉ một tuần lễ (từ 31 - 5 đến 4 - 6 - 2011), Bộ Ngoại giao Philippines đã hai lần lên tiếng phản đối Trung Quốc có những hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines. Ngày 4 - 6, Bộ Ngoại giao Philippines ra tuyên bố, nhấn mạnh: “Các hành động của tàu Trung Quốc đã cản trở các hành động đánh bắt cá bình thường và hợp pháp của ngư dân Philippines và làm suy yếu hòa bình, ổn định trong khu vực”.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc còn hành động quyết liệt hơn. Điển hình gần đây là vụ việc xảy ra ngày 26 - 05 - 2011, tàu Bình Minh 02 của Việt Nam, trong khi đang hoạt động trong vùng Thềm lục địa và Đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam đã bị tàu hải giám của Trung Quốc áp sát và cắt cáp. Tiếp đó, sáng 09 - 06 - 2011, một vụ tương tự lại xảy ra với tàu Viking II do Việt Nam thuê đang tiến hành thăm dò địa chất trong phạm vi vùng Đặc quyền kinh tế, Thềm lục địa Việt Nam.
Sự kiện tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II do Trung Quốc gây ra là vi phạm tinh thần pháp luật quốc tế. Trước đây, Trung Quốc đã từng đâm tàu và cắt cáp tàu của Việt Nam, nhưng khu vực xảy ra nằm ở vùng ngoài 200 hải lý hoặc vùng tranh chấp. Lần này, Trung Quốc đã hành động trên phạm vi rất sâu vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý, và cách bờ biển Hải Nam của Trung Quốc gần 400 hải lý. Hơn nữa, đây không phải là tàu dân sự của hai nước đâm vào nhau mà là tàu chấp pháp xử lý tàu dân sự trong vùng biển Việt Nam. Đó là một hành vi bạo lực, không nên có ở một nước lớn trong xã hội hiện nay. Sự kiện này là bước leo thang mới nằm trong chuỗi hành động có hệ thống nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Nguy hiểm hơn, Trung Quốc coi những hành động ngang ngược của họ trong vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa Việt Nam là việc “bình thường”và còn đổi trắng thay đen, vu cáo Việt Nam là “gây sự”trước và cố “làm to chuyện”.
2. Dư luận thế giới trước những hành động của Trung Quốc đối với khu vực Biển Đông
Thế giới đã và đang hết sức quan tâm và rất lo ngại về cách hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Không phải ngẫu nhiên mà mấy năm trở lại đây, vấn đề an ninh ở Biển Đông đã trở thành chủ đề nóng, được nhiều quốc gia quan tâm, nhiều hội nghị quốc tế và dư luận thế giới đề cập đến. Nhìn chung, chúng ta đã thấy rõ đối tượng gây bất an ở Biển Đông là ai và đâu là giải pháp cho vấn đề an ninh ở Biển Đông.
Trong các nước tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, Philippines có phản ứng mạnh mẽ nhất. Nước này cho biết sẽ đệ trình lên Liên hợp quốc và ASEAN báo cáo về việc các lực lượng Trung Quốc nhiều lần xâm phạm chủ quyền Philippines ở Biển Đông mà Philippines gọi là “Biển Tây Philippines”. Tổng thống Philippines, Benigno Aquino III ngày 17 - 06 - 2011 đã tuyên bố Philippines sẽ kiên quyết “không để Trung Quốc bắt nạt”và yêu cầu Bắc Kinh chấm dứt các hành động vi phạm chủ quyền Philippines.
Gần đây nhất, Philippines đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ở Biển Đông ra Tòa án của Liên hợp quốc phân xử. Tất nhiên, đề nghị này bị Trung Quốc bác bỏ, và vẫn kiên trì chủ trương giải quyết song phương giữa các nước liên quan trực tiếp với nhau. Dư luận cho rằng điều đó chứng tỏ Bắc Kinh cố tình lẩn tránh vì họ không thể chứng minh được chủ quyền của mình trên Biển Đông theo tinh thần pháp luật đã được quốc tế thừa nhận.
Ngày 16 - 06 - 2011, Hạ nghị sĩ George Howarth, Chủ tịch nhóm nghị sĩ Anh - Việt, và Hạ nghị sĩ Mark Hendrick, Chủ tịch nhóm nghị sĩ Anh - Trung cùng đứng tên đệ trình kiến nghị lên Hạ viện Anh về tình hình căng thẳng trên Biển Đông. Ngày 27 - 06 - 2011, Thượng viện Mỹ đã ra Nghị quyết thể hiện rõ thái độ “không đồng tình với việc sử dụng vũ lực của tàu hải quân và tàu hải giám Trung Quốc tại Biển Đông”. Nghị quyết cũng “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và kêu gọi các bên liên quan kiềm chế sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để khẳng định chủ quyền”. Nghị quyết này do Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ tịch Ủy ban các vấn đề châu Á - Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại, Thượng viện Mỹ đề xuất. Ông Jim Webb nói: “Các hành động của Trung Quốc là sự can thiệp rõ ràng vào “những hoạt động đúng đắn của Việt Nam”, và “Mỹ cần có tín hiệu rõ ràng về Biển Đông, cần lên án Trung Quốc dùng vũ lực, cần thúc đẩy các cuộc đàm phán đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông”.
Hội thảo quốc tế “Triển vọng hợp tác, những vấn đề hội tụ và động lực ở Biển Đông”tại Gia-các-ta (Indonesia) kết thúc chiều ngày 31 - 05 - 2011 đã ra tuyên bố, khẳng định: “Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải chiếm tới 80% diện tích Biển Đông theo đường chữ U do họ tự vạch ra là “không phù hợp và đã bị cộng đồng quốc tế chỉ trích”.
Tuyên bố cho rằng, các bên liên quan cần cam kết giải quyết tranh chấp lãnh thổ và pháp lý ở Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường các nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an toàn biển, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm và hướng tới ký kết Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Trong hai ngày 20 và 21 - 6 - 2011, tại Oa-sinh-tơn (Mỹ) đã diễn ra Hội thảo về an ninh hàng hải trên Biển Đôngdo Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề quốc tế và chiến lược Hoa Kỳ (CSIS) tổ chức. Hội thảo đã tụ họp được rất nhiều quan chức chính phủ, học giả và chuyên gia am hiểu các vấn đề về Biển Đông đến từ các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia, Mỹ, Na Uy, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, Singapore... Tại Hội thảo, Giáo sư Tôn Hạo đến từ Đại học Ngoại giao Trung Quốc đã ra sức viện dẫn các “di sản lịch sử”để biện minh cho đường chữ U chiếm tới 80% diện tích Biển Đông. Tuy nhiên, các chuyên gia, học giả các nước trong hội thảo đã bác bỏ các luận điểm, chứng cứ của đại biểu Trung Quốc, hầu hết đều cho rằng, bản đồ đường 9 đoạn hình chữ U là “yêu sách tham lam, thiếu căn cứ pháp lý”. Giám đốc Ủy ban pháp quyền đại dương của Mỹ, Caitlyn Antrim và Giáo sư Carl Thayer đến từ Học viện Quốc phòng Oxtrâylia thống nhất cho rằng: Việc học giả Trung Quốc sử dụng “di sản lịch sử”để giải thích về tuyên bố chủ quyền theo đường chữ U là “thiếu cơ sở theo luật pháp quốc tế”, lý lẽ đó là “rất yếu”và “khó bảo vệ”. Bởi theo Công ước Luật Biển 1982, thì “lịch sử”không phải là một căn cứ hợp pháp để đưa ra yêu cầu chủ quyền đối với cả một vùng biển. Ngoài ra, theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Ủy ban pháp luật quốc tế năm 1962 về “Quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử, bao gồm cả vùng vịnh lịch sử”, để một yêu sách chủ quyền lịch sử có thể được chấp nhận thì phải thỏa mãn ba yêu cầu:
“1. Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách;
2. Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian;
3. Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này”.
Theo các điều kiện này thì chính Việt Nam chứ không phải là Trung Quốc đã thỏa mãn các yêu cầu về chủ quyền lịch sử của mình đối với Biển Đông, bởi như nhiều học giả Việt Nam và quốc tế đã chứng minh, Việt Nam đã liên tục tuyên bố và thực thi chủ quyền của mình đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ hàng trăm năm nay.
Trong một diễn biến khác, tướng Pháp Daniel Schaeffer tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội có tên gọi: “Những diễn biến gần đây ở Biển Đông - hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực” bằng việc chỉ ra các “cột mốc lịch sử”đã cho thấy việc tuyên bố, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có cơ sở pháp lý và lịch sử vững chắc như thế nào và sự tước đoạt của Trung Quốc ra làm sao. Những chứng cứ và cơ sở đó là không thể chối cãi và có giá trị pháp lý to lớn trong việc bảo vệ chủ quyền hợp pháp của Việt Nam và bác bỏ yêu cầu của Trung Quốc.
Bên cạnh các ý kiến của các chuyên gia quốc tế về chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, các học giả Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều lập luận thuyết phục dựa trên bằng chứng lịch sử, pháp luật quốc tế khẳng định chủ quyền này như PGS. TS. Vũ Quang Việt, ThS. Hoàng Việt, Nguyễn Nhã, Dương Danh Huy...
Trên bình diện quốc tế, Giáo sư luật Du Khoan Tứ của Đại học Quốc lập, Đài Loan, khi phân tích về đường lưỡi bò đã chỉ rõ: “Đường ranh giới chữ U không những không được xác định trước khi Công ước Giơ-ne-vơ 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải và UNCLOS 1982 xuất hiện, mà còn không có điểm cơ sở, cũng không có mốc kinh độ, vĩ độ, vì thế nó khó mà biểu thị là một đường biên giới quốc gia được”. Một học giả Philippines nói: “Trung Quốc yêu sách đường chữ U nhưng lại không rõ thực ra đường chữ U thể hiện điều gì. Trung Quốc nói quan hệ bạn bè, thực ra cũng không biết có phải là bạn hay không. Giống như anh vừa giơ tay ra bắt, vừa cướp thức ăn trên tay bạn”. Nhiều học giả tham gia hội thảo tại Hà Nội nhấn mạnh: “Muốn giải quyết vấn đề Biển Đông, trước hết, Trung Quốc phải thay đổi quan điểm của mình”. Muốn “giữ hình ảnh quốc gia”, Trung Quốc sẽ không được quên, thế giới đang nhìn vào hành động của nước này ở Biển Đông”. Học giả Amer Latif thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược Ấn Độ nói: “Thái độ hành động của Trung Quốc ở Biển Đông giúp Ấn Độ hiểu được thái độ và hành động mà Trung Quốc có thể áp dụng với nước láng giềng Ấn Độ và với biển Ấn Độ Dương”.
Cũng tại Hội thảo này, Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain đã có một bản tham luận, trong đó ông chỉ đích danh: “Trung Quốc là lực lượng chính làm căng thẳng Biển Đông”. Các lý do mà Trung Quốc đưa ra và những hành động của họ nhằm khẳng định chủ quyền chiếm tới 80% diện tích Biển Đông là “không có cơ sở luật pháp quốc tế”, “làm xói mòn và bóp méo các nguyên tắc”của luật pháp quốc tế, là “những thách thức nghiêm trọng đến trật tự quốc tế, dựa trên luật lệ”. Ông nhấn mạnh: “Việc cho phép một nước đặt tuyên bố chủ quyền của mình bằng vũ lực thì hậu quả sẽ là thảm khốc”. Bởi vì , “điều đó có thể thiết lập một tiền lệ nguy hiểm để làm suy yếu luật pháp quốc tế theo cách của những người có ý định bệnh hoạn, không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ áp dụng ở nơi khác. Điều đó có thể tạo ra sự khuyến khích gia tăng quyền lực gây phiền hà ở khắp mọi nơi để sử dụng vũ lực...”.
Giáo sư Stein Tonnesso, Viện Nghiên cứu hòa bình Oslo (Na Uy), người từng tham dự hoặc theo dõi nhiều cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông nhận định:
“Rất nhiều học giả tham gia các cuộc hội thảo cho rằng Trung Quốc đang áp dụng một chiến lược hung hăng mới ở Biển Đông... Những sự kiện diễn ra suốt năm 2010 là minh chứng cho thất bại của chính sách Trung Quốc ở Biển Đông trong việc phục vụ lợi ích quốc gia của mình. Những hành động nhằm theo đuổi chính sách đó đã làm xói mòn những nỗ lực ngoại giao trong suốt một thập kỷ qua nhằm xây dựng lòng tin ở Đông Nam Á...”. Ông cho rằng: “Chính sách của Trung Quốc đang đi ngược lại với lợi ích của chính họ. Nếu Trung Quốc thay đổi chính sách của mình để phù hợp với Luật Quốc tế, Trung Quốc có thể nhận được sự ủng hộ của các quốc gia khác...”.
Về mặt quân sự, hai năm trở lại đây, từ khi Bắc Kinh công bố đường lưỡi bò 9 đoạn và gia tăng binh lực, áp đặt đòi hỏi biển đảo và quyền khai thác trong một vùng biển rộng lớn ranh giới mơ hồ, thì các nước lớn bắt đầu can dự vào Biển Đông. Vùng biển này bỗng chốc thành nơi “ngọa hổ tàng long”, với thế “chiến quốc tranh hùng”. Đầu tiên là Mỹ tập trận chung, Trung Quốc tập trận riêng, rồi đến tập trận tam cường Mỹ - Nhật - Úc. Thông tin Ấn Độ sắp tới sẽ đưa biên đội tàu khu trục tên lửa vào Biển Đông và hải quân Ấn Độ chuẩn bị bố trí lực lượng hùng hậu về lâu dài tại vùng biển phía đông của Ấn Độ Dương có thể làm phức tạp thêm vùng biển nhạy cảm này.
3. Thái độ của Việt Nam trước những hành động của Trung Quốc.
Những hành động của Trung Quốc đã hình thành những ấn tượng không tốt trong lòng nhân dân Việt Nam; thậm chí, nó là thách thức nghiêm trọng đối với quan hệ giữa hai nước Việt - Trung. Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ những hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa Việt Nam, đồng thời, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc với vị trí một nước lớn, một Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo An Liên hợp quốc cần phải tuân thủ nghiêm minh Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Cụ thể là:
a. Tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc là nước thành viên;
b. Tuân thủ Tuyên bố về Ứng xử trên Biển Đông mà Trung Quốc đã ký với ASEAN năm 2002;
c. Thực hiện những điều theo nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước; không để tái diễn những hành động tương tự;
d. Bồi thường thiệt hại mà họ gây ra cho Tập đoàn dầu khí Việt Nam.
Việt Nam luôn mong muốn thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, cùng với phía Trung Quốc góp phần bảo vệ công lý, luật pháp quốc tế;
e. Tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, giữ gìn hòa bình an ninh trong khu vực và trên thế giới.
Năm nay (2011) vừa tròn 20 năm hai nước Việt Nam và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ, sau những năm tháng “sóng gió”thì nay, Trung Quốc lại gây “bão tố”ở Biển Đông. Một trong những nguyên tắc cơ bản hai bên đã thỏa thuận sau khi bình thường hóa quan hệ là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Lãnh đạo cấp cao hai nước cũng đã nhất trí xây dựng mối quan hệ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, trở thành “láng giềng tốt, anh em tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Hơn thế nữa, gần đây hai nước còn thỏa thuận xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Đó là những tài sản quý giá phải mất bao nhiêu công sức mới tạo dựng được và phía Việt Nam hết sức trân trọng, giữ gìn.
Có thể nói, sự kiện Bình Minh 02 và ViKing II mà Trung Quốc gây ra trong vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa Việt Nam là phép thử, là mũi tên bắn nhiều đích của họ. Nhưng cái hệ lụy cuối cùng những nhà vạch kế hoạch này chưa chắc đã lường hết được trước một dân tộc yêu chuộng hòa bình, rất có văn hóa kiềm chế và chưa bao giờ khuất phục trước cường quyền như Việt Nam; càng không thể lường hết được trước một dư luận thế giới trong thời kỳ hội nhập, các nước ngày càng phải phụ thuộc vào nhau, không thể đồng tình với bất cứ hành động đe dọa sử dụng vũ lực, đi ngược lại các quy định của Luật Quốc tế. Một ASEAN đang buộc phải cảnh giác trước Trung Quốc. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, vũ lực không bao giờ giải quyết triệt để các vấn đề tranh chấp. Chỉ có lòng tin và nỗ lực giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình mới là chìa khóa để giải quyết các vấn đề Biển Đông, phù hợp với Luật Quốc tế.
Với nguyên tắc giải quyết bằng con đường đối thoại, sau những sự kiện về tàu Bình Minh 02 và Viking II gây sóng gió ở Biển Đông, ngày 26 - 06 - 2011, tại Bắc Kinh, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, đặc phái viên của lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã gặp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc, chuyển ý kiến của lãnh đạo Việt Nam tới lãnh đạo Trung Quốc về quan hệ hai nước và tình hình Biển Đông gần đây. Trước đó, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đã hội đàm với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân. Qua những cuộc gặp này, hai bên cho rằng quan hệ Việt - Trung phát triển lành mạnh, ổn định, đáp ứng nguyện vọng chung và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước Việt - Trung, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực.
Hai bên nhấn mạnh, cần kiên trì đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển theo đúng “phương châm 16 chữ”và “tinh thần 4 tốt”. Hai bên khẳng định, cần tích cực thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, giải quyết hòa bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị; áp dụng biện pháp có hiệu quả, cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông; tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước, đẩy nhanh tiến độ đàm phán để sớm ký kết “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc”, thúc đẩy việc thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”và các công việc tiếp theo, cố gắng đạt tiến triển thực chất./.








