Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 25/02/2005 22:21 (GMT+7)

1/3 Giáo sư, Phó Giáo sư “xứng đáng” bị miễn nhiệm chức danh

Sáng tạo: không "sáng", chỉ "tạo" nhiều vô lý!

- Đợt xét công nhận chức danh GS, PGS năm 2002 có một số thay đổi so với những lần trước và được ghi nhận là có nhiều tiến bộ. Giáo sư thấy những điều gì đã đạt được từ những thay đổi này?
Trước hết, có một tiến bộ đáng ghi nhận là cách gọi học hàm GS thành chức danh GS. Thật ra, chỉ có ở nước ta và cũng chỉ từ giữa năm 80 trở đi mới coi GS là phẩm hàm để phong thưởng, chứ các nướckhác, GS là chức vụ khoa học, với nội dung chức trách cụ thể, cần tuyển chọn người đủ năng lực để đảm nhiệm. Sự khác biệt không chỉ ở ngôn từ, mà ở mục đích và nội dung công việc. Do quan niệm họchàm theo kiểu phong kiến nên nhiều người chỉ có chức quyền dễ dàng được phong GS, cho dù chẳng có trình độ gì. Ngược lại, nhiều nhà khoa học trẻ, rất xứng đáng thì trầy trật mãi vẫn bị loại. Hậu quảlà ta có quá nhiều GS, PGS hữu danh vô thực, cách xa chuẩn mực quốc tế, đồng thời cũng mất đi không ít nhà khoa học trẻ tài năng mà lẽ ra, nếu được công nhận vị trí xứng đáng đã có thể đóng góp nhiềucho đất nước.

Tiến bộ thứ hai là bắt đầu thực hiện hàng năm việc xét công nhận GS, PGS. Chủ trương thực hiện xét duyệt hàng năm đã có từ đợt xét duyệt đầu tiên năm 1980, nhưng suốt thời gian từ đó đến nay làm ìạch mãi cho nên chỉ có thêm 4 đợt nữa: 1985, 1991, 1996, 2002, đợt sau cách đợt trước 5 - 6 năm, mà chẳng bao giờ thật sự thông suốt. Mãi đến năm 2002, nghĩa là sau 23 năm, mới bắt đầu thực thi đượcchủ trương này. Đủ biết sức ỳ trọng bộ máy quản lý của chúng ta. Thôi thì, dù muộn, đây cũng là một cố gắng đáng ghi nhận.

Sau cùng, cũng có thể nêu một tiến bộ khác là đã chấm dứt được cảnh vừa đá bóng, vừa thổi còi (vừa là ứng viên, vừa là thành viên hội đồng xét duyệt) hoặc sự ngược đời học trò ngồi xét duyệt bậc thầynhư trong nhiều đợt xét duyệt trước đây.

- Thực tế sau đợt xét công nhận chức danh năm 2002, vẫn có nhiều ý kiến không đồng thuận với cách thức công nhận hiện nay, cho rằng, việc công nhận chức danh của ta rất khác biệt so với quốc tế, đồngthời lại "phong những người không đáng phong và loại ra những người đáng được phong" vì rằng những thay đổi thực ra là không đáng kể. Giáo sư có ý kiến như thế nào về vấn đề này?
Theo tôi, muốn hay không chúng ta cũng phải hội nhập quốc tế, cho nên phải xây dựng đại học theo tiêu chuẩn như người ta. Chúng ta cứ tưởng mình giỏi hơn họ nên vội vàng "sáng tạo" nhiều quá, mà thậtra chẳng "sáng" gì, chỉ "tạo" ra đầy sự vô lý.

Thứ nhất, không có nước nào có chức danh GS (hay PGS) chung chung như ta, mà chỉ có GS, PGS của một viện nghiên cứu hay ĐH cụ thể. Chức danh GS, PGS chung chung như ta quan niệm hiện nay chẳng khácgì học hàm, vì dựa trên những tiêu chuẩn thống nhất như nhau cho mọi ĐH hay viện nghiên cứu. Thành thử gọi chức danh thay cho học hàm chỉ mới là một tiến bộ hình thức.

Ở các nước, mỗi trường ĐH tuyển chọn GS, PGS theo nhu cầu và chuẩn mực của mình. Để giữ một chuẩn mực nhất định cho mọi ĐH, một số nước lập ra Hội đồng quốc gia để hàng năm xét công nhận những ngườiđủ tư cách được ứng cử vào chức vụ GS, PGS ở các nơi có yêu cầu (chỉ công nhận đủ tư cách ứng cử, chứ không phải công nhận chức danh). Khi một ĐH cần tuyển chọn GS, PGS, thì những người đã được côngnhận đủ tư cách ứng cử (và chỉ những người đó) đều có quyền ứng cử, sau đó ĐH thành lập Hội đồng để xét tuyển. Trong hội đồng này có thể có nhiều thành viên quốc tế hoặc trong nước và thường có thamkhảo ý kiến thẩm định của những chuyên gia am hiểu ở các ĐH danh tiếng khác, trong hay ngoài nước. Như vậy, phải được công nhận đủ tư cách ứng cử mới được quyền ứng cử GS ở một ĐH, đồng thời, mỗi ĐHđược tuyển chọn, trong số những ứng viên đã được công nhận đủ tư cách, người nào đáp ứng tốt nhất các yêu cầu cụ thể của mình. Những ĐH hay viện nghiên cứu lớn, có danh tiếng, thường có nhiều ngườigiỏi ứng cử nên sự tuyển chọn gắt gao hơn những ĐH khác.

Thứ hai, không ai tuyển chọn GS như ta, dựa trên cơ sở tính điểm từng công trình, từng giáo trình, v.v... rồi cộng lại đủ số điểm mới được xét. Công trình khoa học đâu có thể cân, đo, đong, đếm thôthiển như vậy. Xét tuyển GS, PGS chứ đâu phải chấm thi THPT. Các tiêu chuẩn định lượng bằng tính điểm như ta có vẻ chặt chẽ, khoa học song kỳ thật là máy móc, hình thức và phi khoa học. Để so sánhtình hình hoạt động nghiên cứu khoa học của các nước hay các ĐH, có thể tham khảo những số liệu như: số lượng công trình đăng trên các tạp chí khoa học, số lần tên các nhà khoa học được trích dẫn,v.v... vì trong các tập thể lớn, do sự chi phối của luật số lượng về xác suất những dị biệt được cá nhân dung hòa, khiến cho thông tin định lượng có thể phản ảnh trong chừng mực nhất định trình độthực tế trung bình. Có khi đánh giá cá nhân một nhà khoa học thì các chỉ tiêu định lượng chỉ có ý nghĩa rất hạn chế, không bao giờ có thể coi là cơ sở chủ yếu thay thế sự đánh giá định tính của cácchuyên gia trong ngành.

Hơn nữa, cách tính điểm theo quy định của Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) cũng có quá nhiều điều bất hợp lý. Căn cứ vào đâu mà mà mỗi sách chuyên khảo (văn bản HĐCDGSNN ghi làmonography, một từ chẳng phải tiếng Anh, chẳng phải tiếng Pháp) được tính từ 0 đến 4 điểm, mỗi sách giáo trình được tính từ 0 đến 3 điểm, mỗi bài báo được tính từ 0 đến 1 điểm, hoặc từ 0 đến 0,5điểm. Căn cứ vào đâu mà một công trình (sách hay bài báo) có n tác giả thì mỗi tác giả chỉ được 1/n số điểm gán cho công trình? Tại sao 10 điểm thì được xét, còn 9,8 thì bị loại? Hoàn toàn không cócăn cứ khoa học nào cả, chỉ dựa trên cảm tính võ đoán, nhưng lại giả thiết cách tính điểm chính xác đến từng phần mười điểm!

Đó là chưa nói các mặt phức tạp khác, như chủ trì một đề tài cũng được tính điểm bằng 1 hay 2 công trình, thời gian tập sự giảng dạy, học cao học và làm nghiên cứu sinh cũng được tính vào thâm niêngiảng dạy ĐH. Dĩ nhiên, kết quả đề tài thể hiện ở các công trình, mà các công trình thì đã được tính điểm rồi, tại sao còn tính thêm điểm cho việc chủ trì đề tài nữa"? Mà ai cũng biết, đại đa số cácđề tài đều được nghiệm thu xuất sắc, vậy căn cứ vào đâu để tính 1 điểm cho đề tài này, 2 điểm cho đề tài kia? Nhiều luận văn đã bảo vệ thành công ở một số ĐH thực ra chỉ là mớ giấy lộn, thế nhưngnhững vị hướng dẫn các luận văn ấy sẽ thừa điểm để được công nhận GS, PGS. Nghe nói, có vị đã hướng dẫn tới 15 luận văn, chắc phải là siêu GS. Hóa ra, công nghiệp làm luận văn giấy lộn phát đạt lànhờ thế!

- Như vậy thì sẽ có sự "vênh" nhau như thế nào giữa tiêu chí của ta với các tiêu chuẩn để có thể hội nhập quốc tế?

Điều không may là có những tiêu chuẩn định lượng vô lý nhưng lại là tiêu chuẩn loại, nghĩa là không đạt thì tức khắc bị loại, bất kể năng lực thực tế như thế nào. Với cách tính điểm oan nghiệt đó,nhiều nhà khoa học lừng danh trên thế giới nếu đăng ký chức danh GS ở Việt Nam sẽ bị loại ngay vì không đạt tiêu chuẩn: GS phải có sách chuyên khảo hoặc giáo trình. Trong khi đó, nhiều ĐH ở một sốnước đang phát triển không đòi hỏi GS phải giảng dạy; thậm chí muốn ứng cử GS không cần cả bằng tiến sĩ (tuy phải có bằng TS mới được làm trợ lý GS). Sở dĩ như vậy vì ở cấp bậc GS, năng lực hoàn toàncó thể đánh giá thông qua các công trình khoa học, không cần đến những tiêu chí khác mà ở nước ta được đưa lên hàng đầu. Mặt khác, các hoạt động khoa học quốc tế mà ở ta thậm chí không được kể đếnthì ở các nước rất được coi trọng như: tham gia biên tập các tạp chí quốc tế, được mời đọc báo cáo khoa học (nhất là báo cáo chính) trong các hội nghi quốc tế, tham gia ban chương trình quốc tế củacác hội nghị, thỉnh giảng, hợp tác nghiên cứu, đào tạo tiến sĩ ở các ĐH nước ngoài. Tại sao các hoạt động đó được coi trọng? Vì môi trường quốc tế là nơi thử thách những giá trị đích thực, ít ra đốivới khoa học tự nhiên và công nghệ.

Các thủ tục và tiêu chuẩn xét tuyển của ta thể hiện một quan niệm khá thô sơ về GS, PGS. Vì tính điểm kiểu đó cho nên bắt người ứng cử phải tốn nhiều thời gian vô bổ làm hồ sơ rất cặn kẽ, với nhiềubảng biểu theo mẫu phức tạp. Tôi đã có dịp tham gia thẩm định một số hồ sơ ứng cử GS, PGS ở nước ngoài, không thấy ở đâu có những hồ sơ nhiêu khê rắc rối mà lại phiến diện như ở ta, chỉ nhằm phục vụmột quy trình xét duyệt chẳng giống ai cả.

Khoảng 1/3 GS "xứng đáng" thu hồi chức danh!

- Thưa giáo sư, có một thực tế là không ít người sau khi được công nhận chức danh GS, PGS đã xao nhãng nhiệm vụ chính là nghiên cứu mà tận dụng chức danh đó để tham gia dạy thêm và các hoạt độngthương mại giáo dục khác. Vì vậy, đã có ý kiến đề xuất cần phải có quy định miễn nhiệm, bãi nhiệm chức danh GS, PGS để tránh tình trạng có hiện tượng nhiều người tìm mọi cách chạy chọt, vận động kiếmđược chức danh để sau này "kiếm sống" cho dễ?

Đó là thực tế đáng buồn, nhưng phải thấy rõ đây là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lý của ta. Đương nhiên, khi một GS, PGS tỏ ra không xứng đáng như vậy thì cũng nên bãi nhiệm. Có điều là nếu thựchiện đúng biện pháp này thì phải thu hồi cả chức danh của những vị không xứng đáng, như thế có thể đến 1/3 số GS, PGS của ta bị thu hồi chức danh. Cho nên, tôi thấy đề ra việc này cho có vẻ nghiêmtúc chứ thực tế chẳng có ý nghĩa gì, vì đây chỉ là cái ngọn, còn cái gốc là tuyển chọn và sử dụng cho nghiêm túc thì ta lại không chú ý. Hãy so sánh với cách làm ở các nước, tuyển chọn nghiêm túc,nhưng đã được bổ nhiệm GS, PGS rồi thì không thể bị miễn nhiệm, trừ trường hợp phạm tội hình sự. Vì sao như vậy. Như tôi đã có dịp giải thích trong một bài báo trước đây đăng trên báo Tia Sáng, đó làxuất phát từ tính chất đặc thù của lao động khoa học, đòi hỏi không thể quản lý máy móc và thô bạo. Trái lại, chúng ta tuyển chọn thì máy móc, thô bạo, để lọt và ưu ái rất nhiều người kém, lại loạira những kẻ thực tài, sử dụng những người đã được tuyển dụng rất bừa bãi, lãng phí, rồi lại đề ra ai không làm tốt thì bãi nhiệm. Thử hỏi, cách quản lý nào hay hơn, có hiệu quả hơn, văn minhhơn?

- Đội ngũ GS, PGS đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường ĐH. Hiện nay, theo tổng kết của Bộ GD ĐT, có 50% giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học. Có người cho rằngđây là một vấn đề đáng báo động. Nhưng thực tế, ở các trường ĐH khác trên thế giới, tỷ lệ giảng viên nghiên cứu khoa học đạt được con số này đã là khả quan. Như vậy thực chất của con số 50% nghiêncứu khoa học của chúng ta là như thế nào?
Theo tôi biết, nhiều ĐH lớn ở các nước cũng chỉ đạt tỷ lệ khoảng 2/3 giảng viên có nghiên cứu khoa học. ĐốI với số đông các trường ĐH làng nhàng của họ thì hàng năm có 50% giảng viên nghiên cứu khoahọc đã là khả quan. Còn ta thì trong các báo cáo chính thức, tôi thấy có nhận định nghiên cứu khoa học ở các ĐH ta còn yếu kém vì … chỉ có 50% giảng viên nghiên cứu khoa học và chỉ có 30 40% côngtrình khoa học được áp dụng thực tế. Nghe thật sướng tai vì như vậy còn chê trách ĐH Việt Nam nỗi gì. Điều đó chứng tỏ có sự khác biệt rất lớn giữa ta và các nước trong quan niệm thế nào là côngtrình khoa học. Thậm chí, ở nước ta, muốn thi vào làm nghiên cứu sinh phải có hai công trình khoa học đã đăng ở các tạp chí quốc gia. Đương nhiên, cái gọi là công trình khoa học ở đây phải hiểu theotiêu chuẩn ở nước ta, nghĩa là rất thấp. mà cũng đúng thôi vì các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ còn có thế mua sẵn hay chế biến xào xáo từ các "chợ luận văn" kia mà. Cho nên, thiếu tính chuẩn mực, khônggiữ đúng chuẩn mực, bất chấp chuẩn mực quốc tế là nguyên nhân tình trạng lộn xộn, thật giả lẫn lộn, đang tràn lan hiện nay.

Trả lại quyền cho các đại học và viện nghiên cứu

- Vậy thì, thưa giáo sư, việc công nhận chức danh GS cần phải cải tiến theo hướng nào thì mới có thể thực sự tôn vinh đúng những người có chân tài và nghiên cứu khoa học nghiêm túc?

Theo tôi, không phải chỉ cải tiến mà phải thay đổi cơ bản. Cần hướng tới cách làm của các nước phát triển, cải cách quy trình và tổ chức tuyển chọn GS, PGS để nhích dần tới các chuẩn mực thế giới, cụthể là:

Thứ nhất, không quan niệm chức danh GS, PGS chung chung theo kiểu học hàm, mà gắn chức danh đó với một ĐH hay viện nghiên cứu cụ thể.

Thứ hai, các chỉ số định lượng chỉ được dùng để tham khảo, không chỉ số định lượng nào có tính chất loại. Việc xét duyệt, tuyển chọn dựa chủ yếu trên sự đánh giá định tính của các chuyên gia am hiểu,trên cơ sở hồ sơ và thẩm vấn nếu cần thiết.

Thứ ba, hàng năm, HĐCDGSNN chỉ xét duyệt để công nhận những người đủ điều kiện ứng cử vào các chức danh GS, PGS ở các ĐH và viện nghiên cứu, chứ không công nhận chức danh. Đồng thời, để làm tốt việcnày, HĐCDGSNN cũng như các Hội đồng ngành phải gồm những chuyên gia trình độ cao nhất chứ không phải tổ chức mặt trận, trong đó, mỗi đơn vị đều phải có đại diện cho vui vẻ cả.

Thứ tư, trả lại cho các ĐH và viện nghiên cứu quyền thành lập Hội đồng để xét tuyển và đề nghị bổ nhiệm GS, PGS theo yêu cầu của họ. Hàng năm, mỗi ĐH hay viện nghiên cứu có nhu cầu tuyển GS, PGS sẽthông báo rộng rãi để cho mọi người có tư cách đều có thể dự tuyển.

Mỗi GS, PGS là những chức vụ, cho nên mỗi ĐH và viện nghiên cứu trong mỗi thời kỳ cần tùy theo nhiệm vụ của mình mà ấn định một hạn tối đa cho số GS, PGS của mình. Như vậy để tránh tình trạng một ĐHnào đó có quá nhiều GS, PGS, mà vì điều kiện biên chế có hạn, không thể nhận thêm cán bộ trẻ, dù có tài, để làm trợ lý và dần thay thế các đàn anh sau này (số trợ lý trẻ này là nguồn dự trữ rất cầnthiết và phải có thường xuyên). Đồng thời như thế sẽ có một số người giỏi, đủ trình độ GS hay PGS, nhưng vì tại ĐH không còn hay chưa có "ghế" GS, PGS trống, sẽ ứng cử vào các ĐH khác. Nhờ đó, các ĐHnày (thường là ĐH nhỏ, ĐH địa phương), mới có GS, PGS giỏi (những người này, sau khi phục vụ ĐH nhỏ một thời gian lại về ứng cử ở ĐH lớn khi có chỗ). Đó là biện pháp điều hòa, có lợi cho cả ĐH lớn vàĐH nhỏ cũng có lợi cho sự bồi dưỡng và phát triển các tài năng trẻ.

- Đã bao giờ giáo sư trình bày những ý tưởng này với HĐCDGSNN. Hội đồng đã có nhận xét như thế nào về những ý kiến của giáo sư?

Cách đây không lâu, tôi đã có dịp phát biểu trực tiếp những ý kiến trên với HĐCDGSNN. Tuy chưa thành văn bản nhưng cũng đã rất cụ thể và rõ ràng. Tôi rất hoan nghênh thái độ chân thành lắng nghe củađồng chí Chủ tịch Hội đồng. Đó là một dấu hiệu tốt. Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ kinh nghiệm: cải cách chữ viết sai lầm phải 20 năm mới sửa được; thi theo bộ đề phải 8 năm mới chịu chấm dứt; dạy thêm họcthêm tràn lan đến nay vẫn phát triển tuy đã có nghị quyết T.Ư phải chấm dứt từ 7 năm về trước; học hàm phải mất hơn 15 năm mới trở lại là chức danh. Toàn là những chuyện muốn làm khác người ta, rấtsai mà cứ tưởng là hay nên không chịu sửa. Cho nên, phải kiên nhẫn chờ. Nhất là nhìn rộng ra xã hội, thì chuyện tiền lương, chuyện quản lý tài chính, chuyện đề tài khoa học, chuyện tham nhũng, baonhiêu năm rồi vẫn thế. Tôi chỉ buồn là nếu cứ thế này thì chẳng biết đến bao giờ ta mới có được một nền ĐH xứng đáng với các chuẩn mực quốc tế.

- Cuối tháng 4 vừa rồi, HĐCDGSNN tổ chức hội thảo lần đầu tiên về chính sách, chế độ cho các GS, PGS. Trong đó, hầu hết các ý kiến đều cho rằng nếu tăng lương như một liệu pháp "sốc" thì sẽ cải thiệnđược tình hình nghiên cứu khoa học của chúng ta hiện nay. Theo giáo sư, liệu đây có phải là giải pháp tối ưu để kích thích tinh thần nghiên cứu khoa học của đội ngũ này?

Chưa hẳn là thế. Hiện nay có tình hình phức tạp là do lương trong một thời gian dài chỉ đủ 1/5 nhu cầu sinh hoạt theo mức lương chung của xã hội, mà quản lý tài chính thì buông lỏng, nên mọi ngườiđều có những thu nhập khác ngoài lương (mà nguồn gốc cũng là công quỹ cả), nhờ đó thu nhập thực tế của phần lớn GS, PGS đã ở mức khá cao trong xã hội. Nhưng để có mức thu nhâp đó, GS, PGS thường phảidành phần lớn thời gian làm những việc không đúng với chức trách và năng lực của họ. Nhiều người dạy 25 - 30 giờ mỗi tuần, có khi dạy sô, dạy ở các tỉnh khác. Sử dụng GS, PGS làm những việc dưới nănglực của họ như vậy vừa rất lãng phí vừa làm cho trình độ thực tế của họ sút kém hẳn. Dạy bù đầu như thế thì còn thì giờ và đầu óc đâu để cập nhật kiến thức, nói gì đến nghiên cứu khoa học. Vì vậy, điđôi với cải cách chế độ lương, mấu chốt là phải tổ chức lại hệ thống giáo dục để buộc mỗi GS, PGS chỉ dạy không quá 10 giờ một tuần và tập trung thì giờ cho công việc chính của mình ở ĐH. Nên thấy,thực tế là việc này không thể một sớm một chiều mà giải quyết được, cho nên phải có một lộ trình, và phải giải quyết vấn đề một cách hệ thống nhưng cương quyết. Dù sao, bước khởi động là phải cảicách ngay chế độ lương đi đôi với cải cách chế độ quản lý tài chính.

Xin cảm ơn giáo sư.

Hạ Anh(thực hiện)
Nguồn: http://www.vnn.vn/ ngày 19/5/2003

Xem Thêm

Cao Bằng: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, đồng thời tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi kết quả tư vấn, phản biện được áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Dự án Vành đai 4 - Vùng Thủ đô phải minh bạch phương án tài chính
Khẳng định đầu tư theo phương thức đối tác công tư(PPP) đối với dự án thành phần 3 đầu tư xây dựng đường cao tốc thuộc DA Đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội là cần thiết, chuyên gia lưu ý, Nhà nước phải minh bạch phương án tài chính, có phương án tổ chức giao thông rõ ràng, nhất là đối với các phương tiện liên tỉnh bắt buộc phải đi qua Vành đai 4 để bảo đảm quyền lợi nhà đầu tư.
Các nhà khoa học góp ý cho Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô
Ngày 12/9, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với Tổng hội Xây dựng Việt Nam và Hội Khoa học và kỹ thuật Cầu đường Việt Nam tổ chức Hội thảo "Tác động của việc xây dựng Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc theo phương thức đối tác công tư thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội".
Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn phản biện của Liên hiệp hội Việt Nam
Thời gian qua Liên hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã chủ trì tổ chức thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội (TV, PB &GĐXH) rất sôi nổi. Rất nhiều cuộc toạ đàm, hội thảo đã được tổ chức, các hội thành viên, các tổ chức trực thuộc đã đóng góp được những ý kiến rất phong phú, bổ ích.
Phát huy hiệu quả hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội
Hoạt động TVPB&GĐ XH là hoạt động mang tính xã hội, độc lập, khách quan, do trí thức đóng góp trí tuệ, cung cấp cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền làm cơ sở đánh giá, phân tích và quyết định các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng và những chương trình, dự án lớn có liên quan về KH&CN, GD&ĐT và chính sách xây dựng đội ngũ trí thức.
Liên hiệp Hội Sơn La: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn phản biện
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách hiện thực, khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Phát triển nhà ở xã hội: Cần bổ sung cụ thể vào Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi)
Trong tờ trình về dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) gửi Thủ tướng Chính phủ mới đây, Bộ Xây dựng cho biết, nhiều năm qua, việc chăm lo giải quyết nhà ở cho người dân luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm quan tâm và xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tin mới