Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 09/01/2008 23:19 (GMT+7)

So sánh các dị bản truyện “Thầy bói sờ voi” và suy nghĩ về tâm thức dân gian

Trước hết xin hãy đọc bốn dị bản truyện sau đây.

* Truyện cổ dân gian Ấn Độ (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982) kể như sau:

Con voi và bốn người mù

Bốn người mù đi dò dẫm trên đường. Từ phía trước, một con voi đang tiến lại.

- Kìa hãy tránh cho voi đi! Khách qua đường thét bốn anh mù.

Bị tính tò mò kích thích, họ hỏi:

- Thế con voi nó như thế nào? Cho chúng tôi xem với?

Khách qua đường bèn xin ông quản tượng dừng voi lại. Ông quản tượng đồng ý, dừng voi lại và bốn người mù lần đến sờ voi. Người thứ nhất sờ được cái vòi, người thứ hai sờ cái chân, người thứ ba sờ cái bụng và người thứ tư túm được cái đuôi. Sờ xong ông quản tượng liền đánh voi đi. Khách qua đường hỏi bốn người mù:

- Thế nào? Bây giờ các anh đã biết được hình dáng con voi rồi chứ?

- Vâng, bây giờ thì chúng tôi biết rồi.

- Thế nó ra làm sao?

Người mù sờ được vòi nói:

- Nó giống như con rắn to cuộn tròn lại.

Người mù sờ cái chân nói:

- Không phải, anh nhầm rồi. Nó giống như cái cột nhà chứ!

Người mù sờ cái bụng nói:

- Hai anh nhầm. Con voi giống như thùng chứa nước.

Người mù sờ đuôi nói:

- Các anh đều nói sai bét. Nó giống sợi dây tam cố dùng để buộc thuyền.

Thế là bốn người mù đều bị nhầm lại ba hoa với nhau.

Tuy vậy mỗi người trong bọn họ đã nói được một phần sự thực: ai biết ngần nào thì nói ngần ấy.

(sđd, tr.337 - 338)

* Trong Kinh Niết BànKinh Trường A Hàmlại kể như sau: 

Người mù sờ voi

Ngày xưa có một ông vua sai đại thần dắt đền một con voi, cho một bọn người mù sờ xem. Sau đó vua hỏi: “Các ông đã biết voi chưa?”

- Biết rồi! Bọn người mù đáp.

- Thế voi như thế nào?

- Voi xem ra như cái đòn xóc. Người sờ ngà voi bảo.

- Voi như cái quạt. Người sờ tai nói.

- Voi như tảng đá. Người sờ đầu voi đáp.

Người sờ vòi lại bảo: “Voi giống như cái chày”.

- Voi giống như cái hộp gỗ. Người sờ mắt voi nói.

- Không phải. Voi như cái giường. Người sờ lưng voi khẳng định.

- Theo tôi con voi như cái thùng to. Người sờ bụng voi kêu lên.

- Đừng cãi nhau nữa, con voi như sợi dây thừng. Người sờ đuôi xác nhận.

Nhà vua nghe bọn người mù tranh cãi nhau, cảm khái nói:

Người mù đều rất đông

Tranh nhau nói sự thật

Voi vốn chỉ một thân

Thị phi lại bất đồng.

(Trích dịch theo Hồng Phi Mạc, “ Cầm hoa mỉm cười”, BK. 1999)

* Dị bản Việt Nam sớm nhất mà chúng tôi được biết là bản kể của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trong sách Để mua vui, quyển 1, in năm 1929 tại Hà Nội (do GS Kiều Thu Hoạch cung cấp). 

Một lũ mù với nhau

Nhân buổi ế hàng, năm người thầy bói ngồi chuyện gẫu với nhau, ai nấy phàn nàn không biết hình thù con voi nó ra thế nào. Chợt thấy người ta nói có voi đi qua, năm thầy bàn nhau đưa tiền thuê người quản để voi dừng lại cho xem. Người quản có ý chơi khăm chỉ cho mỗi thầy sờ một chỗ, thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi. Đoạn thúc voi đi.

Năm người thầy bói hỏi nhau: Nào, con voi nó như thế nào?

Thầy sờ vòi nói: Nó xoăn xoăn như con đỉa chứ gì.

Thầy sờ ngà bảo: Không phải, nó chần chẫn như cái đòn càn.

Thầy sờ tai bẻ: Nói láo, nó phè phè như cái quạt thóc.

Thầy sờ chân cãi: Ai bảo thế? Nó sừng sững như cái cột nhà.

Thầy sờ đuôi mắng: Các anh nói bậy cả. Chính nó tua tủa như cái chổi xể cùn.

Năm thầy, thầy nào cũng cãi là mình phải, không ai chịu ai, đến nỗi xô xát, cãi nhau, đánh nhau toạc cả đầu, chảy cả máu, rồi đem nhau lên quan kiện. Quan cho lính đi tìm người quản đem voi đến, bắt voi đứng yên, cho năm thầy bói cùng sờ khắp cả đầu đuôi, mình mẩy. Năm thầy sờ xong vào tạ tội quan: Chúng con nhận sai hết cả, xin quan dong thứ.

Quan mắng: Chúng mày một lũ mù với nhau, đã không biết phải trái tròn méo thế nào thì thôi, lại còn sinh sự cãi nhau, đánh nhau, làm nôn nao cả thiên hạ. Đoạn truyền đét cho mỗi thầy mấy roi rồi đuổi ra.

Rõ thật là:

    Chỉ vì một nỗi con voi

Làm cho thầy bói mang roi vào mình.

Cuối truyện tác giả Nguyễn Văn Ngọc không quên ghi chú xuất xứ của truyện: “Bài này lấy ở kinh nhà Phật. Phật có ý dạy người đời u mê ám muội, khó mà rõ được cái Chân Như”. 

Bản kể của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc rất hay. Tác giả đã hư cấu, bổ sung tình tiết và ngôn ngữ khá thú vị, đặc biệt là chi tiết quan xử kiện, cho lũ thầy bói có dịp được sờ voi lần thứ hai để tự kiểm nghiệm nhận thức của mình. Đó là điểm độc đáo không bản kể nào có. Tuy nhiên trong khi kể ông đã tập trung vào mâu thuẫn thế sự: “Đã không biết phải trái tròn méo thế nào thì thôi, lại còn sinh sự cãi nhau, đánh nhau...”. Bản kể của Nguyễn Văn Ngọc đánh dấu sự chuyển thể từ truyện ngụ ngôn sang truyện cười của người Việt.

* Bản kể của Trương Chính sau đây rõ ràng dựa hẳn vào bản kể của Ôn Như vì cũng có năm ông thầy bói nhân buổi ế hàng nhưng đã hoàn toàn loại bỏ nội dung kinh Phật, nhan đề chuyển hẳn sang vấn đề của thầy bói. 

Thầy bói sờ voi

Nhân buổi ế hàng, năm ông thầy bói nói chuyện với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn không biết hình thù con voi nó như thế nào. Chợt nghe người ta nói có voi đi qua, năm thầy chung nhau tiền biếu người quản voi, xin cho voi dừng lại để cùng xem. Thầy thì sờ voi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.

Đoạn, năm thầy ngồi bàn tán với nhau

Thầy sờ vòi bảo:

- Tưởng con voi nó như thế nào, hoá ra nó sun sun như con đỉa.

Thầy sờ ngà bảo:

- Không phải! Nó dài dài như cái đòn càn.

Thầy sờ tai bảo:

- Đâu có! Nó bè bè như cái quạt thóc.

Thầy sờ chân cãi:

- Ai bảo? Nó sừng sững như cái cột đình.

Thầy sờ đuôi lại nói:

- Các thầy nói sai cả. Chính nó tua tủa như cái chổi xể cùn.

Năm thầy, thầy nào cũng cho mình nói đúng, không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau toạc đầu chảy máu.

(Theo Chương Chính, Bình giải ngụ ngôn Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998)  

Phân tích bốn dị bản trên, ta thấy cốt truyện cơ bản hầu như giống nhau, nhưng khác nhau về mấy điểm đáng chú ý như sau:

1. Hai dị bản Ấn Độ đều gọi các nhân vật chính là “người mù”, còn riêng dị bản Việt Nam thì đổi thành “thầy bói”. Bản Nguyễn Văn Ngọc còn nói người mù và ghi chú kinh Phật, còn đến Trương Chính thì chỉ còn thầy bói mà thôi. Phải nói rằng việc chuyển “người mù” thành “thầy bói” là một sáng tạo độc đáo, gắn với tâm thức Việt Nam . Đối với ý thức dân gian Việt Nam thì từ lâu đã có định luận “thầy bói nói mò”. Đó là loại người chỉ dựa vào một bằng chứng vu vơ là tha hồ huyên thuyên, khẳng định như búa bổ. Chính cái tâm thức ấy đã quyết định sự cải tạo lại một truyện ngụ ngôn thành truyện cười thế sự. 

2. Cách cảm nhận các bộ phận của con voi khác nhau, do tập quán và tâm lí dân tộc khác nhau. Ví dụ ở Ấn Độ, Trung Quốc, người ta cảm nhận cái đuôi voi như sợi thừng, còn người Việt cảm nhận như cái chổi xể cùn, cái vòi như con đỉa, chân như cột đình, tai như cái quạt thóc v.v... 

3. Người khách qua đường và ông quản tượng Ấn Độ có vẻ tốt bụng, dừng voi cho người mù sờ xem mà không đòi tiền, còn bọn thầy bói và quản tượng trong hai dị bản Việt thì đều phải có tiền mới xong! 

4. Truyện Ấn Độ không có ý châm chọc, mạt sát người mù, tuy họ nói không đúng, nhưng cũng thừa nhận họ nói được một phần sự thật: ai biết ngần nào thì nói ngần ấy. Đó cũng là một triết lí nhân sinh. Truyện kinh Phật lại sâu thêm ở tính triết lí Phật giáo. Voi vốn là một thể, nhưng sắc tướng khác nhau, nên cảm nhận khác nhau. Người mù ở đây là tượng trưng cho chúng sinh, những kẻ nhìn thế giới theo “lục pháp” (sắc, thụ, tưởng, hành, thức, thần), cho nên chỉ có “vọng tưởng”, hiểu lầm. Nếu chỉ chấp lục pháp thì không hiểu được chân như, phật tính. Nhà vua ở đây biết như vậy, cho nên ông chỉ cảm khái cho chúng sinh, mà không chế giễu họ. Truyện ngụ ngôn Việt Nam là một truyện cười châm biếm, người mù biến thành “thầy bói ế hàng”, toàn truyện giễu cợt một loạt người làm nghề thầy bói, mà thầy bói là mù, không có ý nghĩa tượng trưng chúng sinh và con người nói chung. Đã mù, phải làm nghề thầy bói kiếm ăn vốn đã không ra gì, mà lại còn “không ai chịu ai”, đến nỗi “xô xát, đánh nhau toạc đầu chảy máu” vì những chuyện không đâu! Thái độ khinh bỉ bọn thầy bói mù, chủ quan của truyện người Việt là mạnh nhất, ít bao dung nhất. 

5. Qua so sánh bốn dị bản trên, hai dị bản dân gian Ấn Độ và kinh Phật, người kể là người hiểu chúng sinh, có quan niệm nhân loại, họ nhìn thấy trong người mù có bản thân họ, cho nên truyện kể nhẹ nhàng mà thâm trầm, hàm ý triết lí, không nhằm đả kích người mù. Dị bản Việt Nam người kể tự đứng ngoài, tự coi là đứng cao hơn nhân sinh, thu hẹp nội dung vào việc đả kích một bọn người thầy bói tầm thường. Do vậy nội dung triết lí không sâu. 

Rõ ràng truyện Ấn Độ và truyện trong kinh Phật là có trước, các dị bản Việt Nam có sau. Sự thu hẹp hay bỏ qua nội hàm triết lí trong các dị bản này phải chăng cho thấy dị bản Việt Nam không mấy quan tâm nội dung triết lí, mà thích thú với cảm hứng thế sự, đứng bên ngoài mà chế giễu một lớp người cụ thể khác với mình trong xã hội, như đã từng chế giễu thầy bói, thầy tu, thầy cúng, thầy địa lí, thầy lang, thầy đồ... Các thầy ấy đều có một đặc điểm chung nổi bật là dốt, nhưng không ai chịu ai, lại chuyên đi bôi bác kẻ khác! Phải chăng chỉ qua một so sánh nhỏ này cũng cho thấy được phần nào sự khác biệt trong tâm thức dân gian các dân tộc, mà trong trường hợp này là sự thiếu hụt một tầm nhìn triết lí sâu xa trong dị bản dân gian Việt? Nhưng dị bản Việt Nam lại có một cái đặc thù riêng. Nó biến câu chuyện sờ voi thành một bi hài kịch của những kẻ dốt nát. Những chúng sinh mù lòa ấy lại tự tin, tự phụ đến mức không ai chịu ai, xô xát đánh nhau toạc đầu chảy máu! Đó là chi tiết độc đáo có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có mà thôi. Tôi đồ rằng, những kẻ mù đâu có khả năng nhìn thấy đối tượng? Cho nên cuộc xô xát đâu chỉ là đánh lẫn nhau, có khi còn đấm vào cột nhà, lao đầu vào gốc cây, hòn đá bên đường cũng nên. Một lũ mù và dốt đánh nhau, bạ đâu đánh đó, đâu chỉ có chuyện toạc đầu, có khi đánh vào bụng, vào hạ bộ nữa. Tóm lại là một cuộc bi hài rất hiếm có! 

7. Tôi cứ nghĩ, tại sao chỉ do nhận thức khác nhau mà ở Ấn Độ người ta chỉ “ba hoa” với nhau, ở trong kinh Phật chỉ cãi nhau rồi thôi, đến Việt Nam thì lại chuyển thành xô xát đánh nhau?! Điều đặc biệt thú vị là chi tiết xô xát đánh nhau lại là do người Việt Nam giữ độc quyền sáng tạo. Phải chăng ngoài việc xô xát đánh nhau toạc đầu chảy máu, tâm thức dân gian Việt Nam chưa tưởng tượng ra được một cái kết cục nào tốt đẹp hơn, triết lí hơn cho những bất đồng vặt trong cuộc sống con người?

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất về cơ cấu, số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
Ngày 4/12, tại Hà Nội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thảo luận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI.
Triển khai thực hiện các văn bản mới của Trung ương về về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Chiều 4/12 tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiêp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai Quy định 367-QĐ/TW và Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
Phổ biến những điểm mới các Luật, Nghị định
Sáng 4/12/2025, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo Phổ biến các văn bản tới các Hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và Tổ chức khoa học và công nghệ. Đây là hoạt động thường niên của Liên hiệp Hội Việt Nam nhằm cập nhật thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trong cùng hệ thống.
Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ trồng cây lâm nghiệp cảnh quan và Phát triển nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai
Ngày 01/12/2025, tại tỉnh Gia Lai, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai và tổ chức Face the Future (Hà Lan) tổ chức Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ Trồng cây Lâm nghiệp Cảnh quan và Phát triển Nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai (GLAD).
AI - Đạo đức và an toàn trong kỷ nguyên mới
Chiều 2/12 tại Hà Nội, mở đầu chuỗi tọa đàm “Khoa học vì cuộc sống” của Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2025 đã diễn ra buổi tọa đàm với chủ đề: “Trí tuệ nhân tạo (AI) vì nhân loại - Đạo đức và an toàn AI trong kỷ nguyên mới”. với thông điệp “Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng” tiếp tục truyền cảm hứng đổi mới vì con người.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chúc mừng 50 năm Quốc khánh nước CHDCND Lào
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và 105 năm ngày sinh Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản, thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bà Bùi Thị Minh Hoài - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã gửi thư chúc mừng.
Việt Nam - Lào khẳng định tầm nhìn chung, lợi ích chiến lược đan xen và định hướng đồng hành lâu dài
Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Thongloun Sisoulith và Phu nhân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm và Phu nhân dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam thăm cấp Nhà nước tới Lào và dự Lễ kỷ niệm 50 năm Quốc khánh Lào từ ngày 1 - 2/12/2025.
Viện Chính sách, Pháp luật và Quản lý tuyên truyền về phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội tới tuổi trẻ học đường
Với mục tiêu nâng cao nhận thức, giúp các em học sinh biết cách tự bảo vệ mình trước những cám dỗ, nguy cơ và hành vi vi phạm pháp luật, chương trình: “Tuyên truyền giáo dục về phòng chống ma túy, tác hại của thuốc lá và đồ chơi nguy hiểm có tính bạo lực.” được diễn ra thực sự đã mang lại những giá trị hữu ích.
Định hướng đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không Việt Nam đến 2050
Một quốc gia muốn bay cao thì trước hết phải có đường băng vững chắc. Khát vọng đưa Việt Nam trở thành trung tâm kết nối khu vực về logistics, du lịch, đầu tư và tri thức đòi hỏi chúng ta phải xây dựng hệ thống cảng hàng không, sân bay hiện đại, hiệu quả, bền vững và thông minh.