Ý nghĩa hoá học và nhân văn của văn hoá “trầu cau”
Nhân dịp những ngày lễ Tết, chúng ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa hoá học và nhân văn của phong tục ăn trầu.
* Ý nghĩa hoá học.
Trước đây người ta thường mời nhau ăn miếng trầu cho vui, cho ấm người, cho thơm miệng…Có đúng ăn trầu sẽ làm cho vui, ấm và sạch miệng hay không ?
Lá trầu chứa 1,8-2,4% tinh dầu, chủ yếu là chavibetol và chavicol cùng một số phenolic khác. Nước ép lá trầu có tác dụng tăng áp, giảm mạch ngoại vi và tính kháng rất mạnh. Đông y dùng trầu đánh gió, chữa cảm cúm, bỏng, chữa vết thương.
Trong hạt cau (y học cổ truyền gọi là đinh lang) có khoảng 18% tanin, 14% chất dầu, 2% muối khoáng và các hợp chất ancoloit, đặc biệt là arecolin (C 6H 13NO 2) chiếm 0,5%. Chính arecolin có tác dụng làm tiết nước bọt, làm co đồng tử, kích thích thần kinh phó giao cảm.
Trầu cau không thể thiếu vôi, không có vôi miếng trầu không thể chuyển sang màu đỏ. Vôi là chất kiềm, khi tác dụng với arecolin, chất này có tính độc và chuyển thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn.
Người ta thường thêm vào miếng trầu một lát vỏ rễ cây chay. Vỏ có tác dụng tăng thêm tanin cho miếng trầu. Nhai miếng trầu khoảng 15-20 phút, bắt đầu “giập bã trầu”, ở nhiệt độ cơ thể 37oC, các phản ứng hoá học, phản ứng sinh màu giữa các phenolic, arecolin, arecaidin, tanin và các chất khác trong môi trường kiềm xảy ra. Chính các phản ứng này tạo cho người ăn trầu cảm giác say, hưng phấn, ấm áp, làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn, làm sạch miệng, làm chặt chân răng. Ăn trầu chính là một cách trang điểm của người phụ nữ trước đây. Miếng trầu làm cho đôi má thêm hồng, đôi môi thêm thắm, cho lòng thêm say.
* Ý nghĩa nhân văn
Lá trầu, quả cau là hai thứ không thể thiếu trong các đồ tế lễ, thờ cúng thần thánh, tổ tiên. Người ta thường nói “hương, hoa, phù, tửu, bạc lễ chi nghi” (hương, hoa, trầu, rượu, lạc lễ là nghi thức).
Miếng trầu có mặt trong mọi lễ nghi, cưới hỏi, giỗ chạp, tang gia…đã trở thành phong tục, truyền thống của người Việt Nam . Ngày nay tuy không ăn trầu nhưng trong các lễ nghi người ta vẫn giữ phong tục truyền thống nghĩa là vẫn có trầu, cau. Lễ chạm hỏi còn gọi là lễ “bỏ cơi trầu”.
* Miếng trầu mang nhiều ý nghĩa
*Miếng trầu dùng trong giao tiếp, miếng trầu là đầu câu chuyện:
“Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?”
* Miếng trầu dùng để trao duyên:
“Trầu này trầu quế, trầu hoa,
Trầu Loan, trầu Phượng, trầu ta, trầu mình.”
* Miếng trầu dùng để trách người bạn trai chậm chân:
“ Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những này còn không?
Bây giờ em đã có chồng”
* Miếng trầu dùng để khuyên nhủ lứa đôi:
“ Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.”
* Miếng trầu dùng khi giúp đỡ việc cưới xin:
“Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buống cau.”
* Miếng trầu dùng để trang điểm:
Trầu này trầu tính, trầu tình
Ăn vào thêm đỏ môi mình, môi ta”
* Miếng trầu dùng để đo thời gian
“ Ngồi chơi mới giập bã trầu,
Mong anh nán lại, đôi câu giãi bày.”
Ông cha ta đã dùng miếng trầu để diễn đạt các cung bậc của tình cảm.
Cây cau, giàn giầu (trầu) đã đi vào văn thơ:
“ Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cauthôn Đoài nhớ giầukhông thôn nào?”
Hoặc là:
“Lấy chồng, em phải bước theo,
Dây trầu không chẳng buồn leo vào giàn”
Chà! Văn hoá “trầu cau” sao mà mang nhiều ý nghĩa nhân văn hay đến thế.
* Giầu khônglà tên cây cho lá để ăn trầu (ăn giầu)
Nguồn: Hoá học & ứng dụng số 1, năm 2006