Xơ vữa động mạch - một nguy cơ của đột quỵ não
XVĐM không xảy ra ở các động mạch nhỏ, không xảy ra ở các động mạch có áp lực thấp. bệnh cũng không xảy ra ở trong các tĩnh mạch. Mảng xơ vữa không bao giờ xảy ra đơn độc, có nhiều chỗ trên một động mạch và xảy ra cùng lúc ở nhiều động mạch. Mảng xơ vữa thường xuất hiện từ từ không có triệu chứng lâm sàng và chỉ bộc lộ khi động mạch bị hẹp nhiều hay bị tắc nghẽn.
Mảng xơ vữa (MXV) tiến triển rất chậm, kéo dài hàng chục năm và không có thoái lui. MXV có thể loét hoại tử, hoại tử chảy máu, gây phồng tách động mạch, khi mức loét thì tiểu cầu dễ bám vào, từ đó hình thành huyết khối làm hẹp hoặc lấp lòng mạch, huyết khối bong ra trở thành vật tắc mạch. MXV có thể nhiễm calci và cứng.
Có nhiều giả thuyết về sự hình thành mảng xơ vữa, tuy nhiên giả thuyết đáp ứng với chấn thường của Ross và Glomet được nhiều người chấp nhận hơn cả: Người ta cho rằng trước hết phải có tổn thương các tế bào lớp nội mạc thành động mạch làm hư hỏng các tế bào đó hoặc các tế bào đó mất chức năng bảo vệ thành mạch, tổn thương có thể do áp lực dòng máu cao và liên tục tác động đến như bệnh tăng huyết áp, do hút thuốc lá, một số thuốc và hóa chất, thức ăn, rối loạn lipid máu, nhiễm khuẩn và virus, các yếu tố miễn dịch… Khi bị tổn thương các tế bào mất khả năng tiết prostaglandin, tiểu cầu lập tức tách ra khỏi dòng máu để tập trung vào chỗ đó và kết dính lại. phóng thích ra nhiều chất trong đó yếu tố tăng trưởng, yếu tố này kích thích sự di chuyển các tế bào cơ trơn ở lớp trung mạc ra lớp nội mạc và phát triển mạnh tại chỗ đó; các monocyt từ dòng máu cũng huy động đến ngay chỗ tổn thương được chuyển thành đại thực bào, các tế bào này cùng các tế bào nội mạc thành mạch cũng tiết ra các yếu tổ tăng trưởng tương tự.
Não được tưới bởi hai động mạch cảnh trong và hai động mạch đốt sống. Khi vào nội sọ các mạch hệ cảnh đều có hai mạch, một ở bên phải, một ở bên trái để tưới máu cho mỗi bên não bán cầu. Ở phía sau khi vào hộp sọ hai mạch sống hợp lại thành một mạch thân nền tưới máu cho thân não và tiểu não. Sự bố trí mạch máu như trên giải thích các tại biến thiếu máu cục bộ thuộc hệ cảnh thì cho triệu chứng thần kinh một bên, còn tổn thương hệ sống nền thường cho triệu chứng lan tỏa hai bên.
Khi bị xơ vữa thành mạch, đặc biệt là lớp áo trong dày làm hẹp lòng mạch, phải hẹp trên 70% mới gây TBMMN. Thành mạch bị xơ vữa trở nên thô ráp tạo thuận lợi cho tiểu cầu bám vào, lớn dần và vỡ ra từng mảnh. Vì cục tắc cấu tạo bằng tiểu cầu nên nó không bền chắc và có thể tự tan đi , người bệnh có thể phục hồi hoàn toàn trong 24h. Đó là thiếu máu thoáng qua cũng có thể là do tuần hoàn bằng hệ tưới máu kịp thời cho vùng thiếu máu: Ở giai đoạn sau có hồng cầu bám thêm cùng với sợi tơ huyết thì cấu trúc cục tắc trở nên bền dai hơn. Khi bong ra và trôi lên não gây tắc mạch thì nó không tan và nếu tuần hoàn bằng hệ nghèo nàn thì trên lâm sàng sẽ biểu hiện một thiếu máu cục bộ hình thành. Nhưng cũng có khi không bong ra và cứ lớn dần bịt kín lòng mạch. Trên chỗ tắc bịt, máu đọng lại tạo ra cục tắc ngày càng dài ra phía trên và đi vào não gây tắc cửa vào của các mạch bàng hệ.
Nguồn gốc chính là do mảng xơ vữa, tạo bởi ứ đọng cholesterol, lipid dưới lớp nội mô của mạch máu.
Vị trí thường gặp có khoảng 90% mảng xơ vữa nằm ở chạc ba chia động mạch cảnh gốc thành các động mạch cảnh trong và cảnh ngoài, chỉ có 8% là nằm tại động mạch cảnh trong nội sọ. Mảng xơ vữa làm hẹp lòng mạch và gây hẹp nếu trên 70% mới có triệu chứng lâm sàng. Mảng xơ vữa có thể nhẵn hoặc loét, gây huyết khối thành mạch. Thường thấy có loét ở đáy mảng tạo nên một đám kết đó là các huyết khối trắng. Sau đó hồng cầu đọng thêm vào chuyển thành huyết khối đỏ. Cục huyết khối trắng hoặc đỏ có thể vỡ ra thành mảnh di chuyển lên não hoặc đọng lại rồi lớn dần lên phía trên gay tắc mạch.
Phần lớn các trường hợp thiếu máu cục bộ não là do sự di chuyển cục máu từ động mạch vùng cổ lên não gọi là thiếu máu cục bộ nguồn gốc nghẽn mạch. Cục tắc này có cấu trúc tiểu cầu, cục máu đông và cholesterol. Do giảm lưu lượng máu hậu quả của hẹp lòng mạch 50% mới chỉ thấy áp lực phía trên bị giảm và phải giảm tới >70% mới có dấu hiệu lâm sàng.
Sự tồn tại và nguồn gốc tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
+ Vị trí hẹp trên và dưới của động mạch mắt
+ Tốc độ hình thành tắc bít có thể là dần dần, có thể là đột ngột
+ Sự tác động của tưới bù
+ Vùng não bị xâm phạm.
* Một số các yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch:
Tuổi càng cao thì xơ vữa càng phát triển. Có nhiều nghiên cứu cho thấy độ dày nội mạc mạch máu tăng dần theo tuổi.
Về giới tính : Nữ tổn thương mạch máu chậm hơn nam, nhưng sau tuổi mãn kinh thì tiến triển bệnh ở hai nhóm ngang nhau.
Rối loạn lipid máu: Nhiều tác giả đã khẳng định cholesterol đặc biệt là cholesterol estee là thành phần chính trong mảng xơ vữa, các chế độ ăn có nhiều mỡ động vật (acid béo bão hòa) và các thực phẩm chứa nhiều cholesterol như trứng, gan, óc thì sẽ làm tăng nồng độ cholesterol máu cho nên tai biến mạch máu não càng tăng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, điều trị giảm lipid máu thì làm chậm tiến triển mảng xơ vữa và sẽ làm giảm sự phát triển tai biến mạch máu não.
Bệnh tăng huyết áp:Các cuộc điều tra cho thấy, hai bệnh này hay phối hợp nhau, tăng huyết áp làm tổn thương nội mạch, làm tăng tính thấm thành mạch đối với các lipoprotein, vì vậy xơ vữa dễ phát triển.
Thuốc lá làm giảm nồng độ HDL, làm giảm cung cấp oxy các mô, làm tổn thương tế bào nội mạc tạo điều kiện cho xơ vữa động mạch phát triển, đồng thời nó còn làm tăng kết dính tiểu cầu, kích thích hệ giao cảm gây co mạch và tăng huyết áp.
Đái đườngsẽ gây rối loạn chuyển hóa lipid làm tăng triglicerit, giảm HDL, giảm khả năng tổng hợp PGI2 là một chất giãn mạch.
Trạng thái ít hoạt động thể lực:Nhiều nghiên cứu cho thấy người lao động trí óc, người ở thành phố, người chịu nhiều stress… sẽ bị xơ vữa động mạch nhiều hơn. Khi hoạt động thể lực tốt sẽ làm tăng HDL – loại cholesterol có hại cho cơ thể, đồng thời làm tiểu cầu ít kết dính, như vậy quá trình xơ vữa động mạch ít phát triển.
Béo phì thường đi đối với rối loạn lipid máu, cho nên rất thường bị tăng huyết và đái đường dẫn đến dễ bị xơ vữa động mạch.
Tóm lại xơ vữa động mạch rất nguy hiểm vì nó là một nguyên nhân chính gây đột quỹ não và tim. Cho nên việc phòng ngừa các yếu tố nguy cơ của xơ vữa là vô cùng quan trọng để ngăn ngừa các biến chứng của đột quỵ có thể xảy ra.








