Xây dựng và phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, phân tích về nguyên nhân dẫn đến thất bại của loại hình kinh tế hợp tác xã, như: trình độ tổ chức, quản lý, điều hành kém của cán bộ; vận hành sai nguyên tắc; công tác vận động tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã viên không hiệu quả,v.v.. Cùng với việc tìm ra nguyên nhân, lý giải về sự sụp đổ của kinh tế hợp tác xã, dường như người ta cũng đổ hết mọi lỗi lầm, trì trệ của nền kinh tế thời kỳ "quan liêu bao cấp" cho nền kinh tế hợp tác xã. Vậy phải chăng hợp tác xã là loại hình kinh tế không phù hợp trong đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam ? Thực tế không phải vậy, trong khi thành phần kinh tế tập thể, (chủ yếu là loại hình kinh tế hợp tác xã kiểu cũ) tàn lụi dần thì lại có nhiều tổ hợp tác, hợp tác xã mới được thành lập và làm ăn rất hiệu quả. Ví dụ Liên hợp các hợp tác thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn Co.op Mart); Hợp tác xã nông nghiệp kinh doanh - dịch vụ Duy Sơn II (Quảng Nam); Hợp tác xã vận tải đường sông Rạch Gầm (Tiền Giang); một số hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở Kiên Giang, v.v… Từ thực tiễn cho thấy, chúng ta phải nhìn nhận lại vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa. Phải khẳng định rằng, sự ra đời, phát triển của hình thức tổ chức sản xuất tổ hợp tácvà hợp tác xãtrong nền kinh tế nhiều thành phần, là một yếu tố khách quan (theo quy luật phát triển kinh tế). Do đó, vấn đề đặt ra là, phải tạo điều kiện về cơ chế, luật pháp, có chính sách khuyến khích, ưu đãi, để nó hoạt động một cách hiệu quả. Về vấn đề này, Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng ta nêu rõ: "Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã và thực hiện Luật Hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các hợp tác xã, các tổ hợp tác kiểu mới và các mô hình kinh tế tập thể khác theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, có chức năng kinh tế xã hội. Tạo điều kiện phát triển các trang trại ở nông thôn và hình thành hợp tác của các chủ trang trại" 1.
Chủ trương của Đảng tiếp tục phát triển thành phần kinh tế tập thể, trong đó chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế hợp tác xã, có ý nghĩa quan trọng đối với các vùng kinh tế lấy sản xuất nông nghiệp làm ngành chủ yếu, (như ở khu vực sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long). Bởi vì, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường mở rộng, để có nguồn hàng hóa phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, phải hình thành được các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Xuất phát từ tình hình thực tiễn hiện nay, Đảng ta chỉ đạo: "Quy hoạch các vùng chuyên cảnh sản xuất lúa hàng hóa lớn, đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa. Hiện đại hóa công nghiệp bảo quản, chế biến" 2. Trên cơ sở đó tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và nước ngoài. Trước những yêu cầu đòi hỏi khách quan đó, vai trò của thành phần kinh tế cá thể, hay kinh tế hộ gia đình không thể đáp ứng được. Do đó, việc ra đời các tổ hợp tác, hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất quy mô nhỏ và vừa, chính là bước đi phù hợp đối với công tác tổ chức sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Tuy nhiên, để tránh mắc phải những sai lầm trong lịch sử phát triển của phong trào "Hợp tác hóa" thời kỳ trước đây, cần thiết phải có sự nghiên cứu, rút kinh nghiệm kịp thời từ thực tiễn các địa phương đang có nhiều hợp tác xã hoạt động theo Luật hợp tác xãsửa đổi (12-2003). Trên cơ sở phân tích tình hình từ những bài học phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã ở Kiên Giang, (thành công và hạn chế) đặt ra những vấn đề cần phải xem xét, điều chỉnh, rút kinh nghiệm, nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế hợp tác ở Kiên Giang phát triển theo chủ trương Đại hội XI của Đảng.
Kiên Giang là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), là tỉnh trọng điểm về sản xuất nông nghiệp của vùng và của cả nước. Kiên Giang có diện tích đất nông nghiệp trên 475 nghìn ha, chiếm 74,88% diện tích tự nhiên, trong đó đất trồng lúa 354 nghìn ha, chiếm 74,5% đất sản xuất nông nghiệp. Do điều kiện tự nhiên chi phối, sản xuất nông nghiệp của tỉnh hình thành bốn vùng sinh thái lớn, đặc trưng cho vùng ĐBSCL, gồm vùng phù sa ngọt thuộc Tây sông Hậu; vùng đất phèn ngập nước thuộc Tứ giác Long Xuyên; vùng đất nhiễm mặn thuộc U Minh Thượng và vùng đồi núi, hải đảo thuộc huyện Phú Quốc và Kiên Giang. Với lợi thế tự nhiên đó, đã làm cho tiềm năng Nông nghiệp của Kiên Giang phát triển phong phú và đa dạng.
Quán triệt Nghị quyết số 13-NQ/TƯ, ngày 18-3-2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) và Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 2-1-2008 của Ban Bí thư Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, trong những năm qua tỉnh Kiên Giang đã tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể trên các lĩnh vực, nhất là nông nghiệp, nông thôn và đã có những bước chuyển biến tích cực. Kinh tế hợp tác xã đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức thu nhập của hộ nông dân, cải thiện đời sống nhân dân và đóng góp tích cực vào GDP của tỉnh (đạt trên 4,9%GDP), chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở địa phương. Kinh tế tập thể ở Kiên Giang được tổ chức dưới hai loại hình cơ bản:
1) Tổ hợp tác (THT) sản xuất: Xu hướng hiện nay trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là ngày càng có nhiều hộ nông dân tổ chức liên kết, hợp tác với nhau để phát triển sản xuất. Mô hình này bước đầu đã đem lại hiệu quả thiết thực: giảm chi phí giá thành trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ; các hộ nông dân trong một vùng (hoặc một địa phương) gieo sạ đúng lịch thời vụ, phòng trừ sâu bệnh, ứng dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do có sự hợp tác, nông dân có điều kiện trao đổi học hỏi kinh nghiệm sản xuất và hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn trong cuộc sống, thường xuyên tạo được việc làm, hạn chế thời gian nông nhàn, năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn so với làm ăn riêng lẻ…, từ đó góp phần giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, gắn kết tình làng nghĩa xóm, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn. Tính đến nay, toàn tỉnh có 3.021 tổ (trong đó lĩnh vực nông nghiệp có 2.483 tổ, còn lại là các lĩnh vực khác) thu hút 60.336 hộ tham gia (tương ứng với diện tích 80.945ha). Huy động vốn góp của thành viên và tiếp cận vốn từ các nguồn khác 11,9 tỷ đồng để hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Các THT thành lập mới ngày càng nhiều, về tổ chức và hoạt động của THT cơ bản phù hợp theo tinh thần Nghị định 151/2007/NĐ-CP, ngày 10-10-2007 của Chính phủ. Quá trình tổ chức hoạt động của những THT này sẽ là bước chuyển dịch cơ bản, xu hướng dần dần phát triển thành HTX. Thực tế trên địa bàn toàn tỉnh đã xuất hiện một số mô hình tiêu biểu, điển hình như: THT trồng khoai lang (xã Mỹ Thái, huyện Hòn Đất); THT trồng dưa Hoàng Kim (xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận); THT nuôi bò sinh sản (Ấp Hòn Me và Hòn Quéo xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất); THT nhân giống lúa số 02 (Ấp Bàu Môn xã Hưng Yên, huyện An Biên); THT trồng nấm rơm của phụ nữ người Khơme (Ấp Cái Đuốc xã Ngọc Chúc, huyện Giống Riềng); THT " lúa-tôm-cá" (Ấp 08 Hai xã Thuận Hòa huyện An Minh); THT nuôi trồng thủy sản (Ấp Bãi Nam xã Hòn Nghệ) và THT sản xuất Ấp 04 thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc, v.v… Thông qua hình thức Tổ hợp tác sản xuất, hỗ trợ nhau làm ăn có hiệu quả, nông dân nhận thức rằng trong điều kiện hiện nay (hội nhập và toàn cầu hóa), nếu chỉ làm ăn cá thể sẽ khó có thể tồn tại và phát triển được.
2) Hợp tác xã (HTX):Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức HTX trong sản xuất nông -ngư nghiệp ở Kiên Giang, từ năm 2006 đến nay, tỉnh đã quan tâm chỉ đạo củng cố, kiện toàn tổ chức HTX mới theo Luật Hợp tác xã. Kết quả, đến năm 2010 toàn tỉnh có 171 HTX, tăng 59 HTX so với năm 2006, trong đó có 120 HTX nông nghiệp, tăng 54 HTX (nhiều HTX nông nghiệp được hình thành lập từ các tổ hợp tác, tổ nhân dân tự quản, câu lạc bộ khuyến nông, chi hội làm vườn); 7 HTX thủy sản, 11 HTX giao thông vận tải, 5 HTX xây dựng, 3 HTX thương mại - dịch vụ, 3 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và 22 QTDND. Với 30.264 xã viên, thu hút 59.932 lao động trong HTX. Tổng vốn điều lệ 75.679 triệu đồng, với 29.025,92 ha đất sản xuất nông nghiệp, chiếm 19,50% hộ dân, 24,90% hộ nông dân tham gia.
Khác với các hợp tác xã được thành lập ở thời kỳ trước đổi mới, các HTX hiện nay được thành lập xuất phát từ nguyện vọng của các hộ nông dân và người lao động. Các hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thỏa thuận mức góp vốn, thống nhất phương hướng, mục tiêu sản xuất, kinh doanh. Đại hội xã viên thông qua vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý và điều hành của ban chủ nhiệm; nội dung hoạt động của HTX được cụ thể hóa và bàn bạc dân chủ từ khâu xây dựng kế hoạch, phân công người chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức sản xuất kinh doanh; có báo cáo hàng tháng, hàng quý và hoạch toán lợi nhuận cả mùa vụ. Chính vì vậy, hầu hết các HTX làm ăn có hiệu quả, tọa được công ăn việc làm thường xuyên cho xã viên và người lao động. Từng bước đã có những liên doanh, liên kết với nhau giữa HTX với HTX, giữa HTX với các doanh nghiệp, mang lại những kết quả trông thấy rõ rệt, (nếu làm ăn riêng lẻ thì không thể làm được). Thông qua các hình thức liên doanh, liên kết, các hợp tác xã đảm bảo được việc cung ứng kịp thời, có kế hoạch các loại giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nguyên liệu, phục vụ cho sản xuất, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm quy mô hàng hóa. Điển hình là trong thời gian qua, Công ty Thương mại - Du lịch Kiên Giang đã tổ chức ký kết hợp đồng với các HTX và tổ chức hợp tác xã theo phương thức Công ty bán phân bón, thuốc trừ sâu trả chậm trong thời gian 4 tháng, hoặc theo thời vụ, với lãi suất ngân hàng cùng thời điểm. Về phía HTX, THT, có nghĩa vụ bán lại lúa cho Công ty theo giá thỏa thuận. Từ chỗ các xã viên thì được HTX cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu chậm với giá cả hợp lý, chất lượng đảm bảo và không cần phải cầm cố, thế chấp tài sản, đã giúp xã viên yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế việc ép giá và cho vay nặng lãi (kể cả việc bán lúa non) ở nhiều vùng nông thôn…, góp phần giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
Qua khảo sát phân loại, theo số liệu thống kê của tỉnh, nhìn chung các HTX hoạt động sản xuất kinh doanh khá giỏi ngày càng tăng. Năm 2006 HTX khá, giỏi chiếm 35,34%; trung bình chiếm 52,58%; yếu, kém 12,06%; năm 2010, HTX khá, giỏi chiếm 61,20%; trung bình chiếm 35,07%; yếu, kém giảm còn 3,73%. Điển hình của các HTX giỏi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là: HTX Thạnh Hòa (xã Mong Thọ A, huyện Châu Thành); HTX 41 (Ấp Trung Thành xã Phi Thông, Thành phố Rạch Giá); HTX kệnh 3A, 4A (thuộc xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp)v.v…
Đi đôi với chỉ đạo củng cố, phát triển các THT và HTX , tỉnh đã chỉ đạo thực hiện các chính sách hỗ trợ vốn, cán bộ kỹ thuật, khuyến nông, môi giới, thông tin thị trường… góp phần nâng cao năng suất, tăng giá trị sản phẩm của bà con nông dân. Ví dụ về hỗ trợ tín dụng, đầu tư công nghệ mới (một vấn đề rất khó khăn đối với nhiều hộ nông dân ở Kiên Giang), tỉnh đã có chủ trương hỗ trợ lãi suất cho vay (hình thức tín chấp) đối với tổ hợp tác, hợp tác xã, để nông dân có thể tiếp cận nguồn vốn vay mua máy cày, máy xới, máy gặt đập liên hợp, máy sấy máy suốt lúa…, từng bước cơ giới hóa nông nghiệp, thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ, thủ công, tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất; tỉnh cử cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến nông trực tiếp hướng dẫn xã viên các HTX, THT sử dụng, vận hành thiết bị bơm tưới, máy móc nông nghiệp, cách thức pha chế, sử dụng thuốc trừ cỏ, trừ sâu; hướng dẫn phương pháp canh tác, gieo sạ lúa… góp phần nâng cao năng lực, quy mô, trình độ cơ giới hóa sản xuất của nông dân trong tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh thực hiện cơ giới hóa khâu làm đất đạt 97% diện tích sản xuất lúa, 30% diện tích gieo sạ bằng công cụ cải tiến (sạ hàng), 100% khâu tuốt hạt, 90% diện tích được bơm tưới bằng điện và động lực, (trong đó 15% diện tích được bơm tưới bằng động cơ điện); 30% sản lượng lúa hè thu được sấy bằng máy; 20% diện tích thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp. Ở những vùng nuôi trồng chuyên canh, tập trung, hầu hết các HTX đã sử dụng các thiết bị cơ giới hóa cho khâu làm đất, chăm sóc, bảo vệ thực vật (như trong việc trồng, thu hoạch mía và một số loại cây ăn trái). Đầu tư mở rộng, nâng cấp 5 cơ sở giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, (thuộc các HTX), đáp ứng nhu cầu giống tốt cho gần 30% diện tích sản xuất lúa, 25% diện tích nuôi trồng thủy sản.
Mặc dầu tình hình phát triển sản xuất, kinh doanh của thành phần kinh tế HTX ở Kiên Giang đã đạt được một số kết quả tích cực, song vẫn còn những tồn tại, hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro, thiếu bền vững. Nhìn nhận chủ trương chỉ đạo của Đảng: " Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn" 3chúng tôi thấy còn nhiều việc, nhiều vấn đề mà tỉnh Kiên Giang phải tập trung đầu tư, giải quyết trong thời gian tới. Cụ thể là: Kinh tế tập thể (nói chung), HTX nông nghiệp (nói riêng) của Kiên Giang tuy đã có bước phát triển, nhưng còn chậm, hiệu quả chưa cao; chất lượng, số lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp của các HTX còn đơn điệu, bó hẹp cả về quy mô và địa bàn; hầu hết các HTX chưa tổ chức được các dịch vụ gia tăng thu nhạp cho xã viên (như dịch vụ sơ chế sản phẩm hoa quả, tổ chức sản xuất các sản phẩm phụ từ nông nghiệp như trồng nấm rơm, kết hợp sử dụng sản phẩm phế thải của nông nghiệp để chăn nuôi gia súc, gia cầm…), do đó chưa phát huy hết nguồn nhân lực dư thừa của các địa phương. Nhiều HTX chưa chú trọng khâu tích lũy vốn (chia hết lợi nhuận); tỷ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm xã hội của tỉnh vẫn còn thấp. Hầu hết các HTX chưa chú trọng đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (văn phòng, trụ sở HTX), cũng như thiếu quan tâm đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương, qua đó quảng bá hình ảnh, thương hiệu, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân góp phần hiện đại hóa nông thôn. Cho đến nay nhiều HTX còn phải đi thuê, mượn tạm trụ sở ấp, hoặc nhà riêng để làm nơi giao dịch, hội họp, vì vậy sự thu hút các hộ nông dân cá thể vào HTX còn yếu. có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng có thể thấy một số nguyên nhân phổ biến sau đây:
Thứ nhất là thiếu vốn sản xuất, hoạt động. Mặc dù đã có sự tạo điều kiện về nguồn vốn của tỉnh cho sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn còn có không ít HTX chưa tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng cho vay ưu đãi (vì không có tài sản thế chấp), do đó HTX thiếu vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thủ tục cho vay của hệ thống tín dụng, ngân hàng còn nhiêu khê, chậm trễ trong việc rải ngân các kế hoạch, dự án của HTX đã được phê duyệt, làm mất đi tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp giảm tính cạnh tranh hàng hóa.
Thứ hai là về vấn đề cán bộ. Do tính chưa có hệ thống các trường, lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý HTX, phổ biến thông tin khoa học kỹ thuật sản xuất cho nông dân một cách bài bản, thường xuyên, nên cán bộ, xã viên HTX chưa tiếp cận được với khoa học quản lý, chưa nắm bắt kịp thời những tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, vì vậy trình độ, năng lực quản lý, điều hành của Ban chủ nhiệm, Ban quản lý HTX còn yếu kém; việc điều hành, quản lý HTX ở nhiều nơi còn làm theo cách cũ và thói quen kinh nghiệm; cán bộ chưa linh hoạt với cơ chế sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường, nên còn lúng túng trong điều hành, không kịp thời trong chỉ đạo hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX, thiếu sáng tạo nhạy bén trong bối cảnh hội nhập cạnh tranh gay gắt. Có thể xem đây là nguyên nhân cơ bản.
Thứ balà vai trò chỉ đạo, môi giới, tạo cơ hội hợp tác cho các HTX của các cơ quan chính quyền, ban ngành chức năng của tỉnh còn yếu và không kịp thời, vì thế sự liên kết HTX với HTX, cũng như giữa HTX với các doanh nghiệp còn hạn chế; các HTX chưa đủ sức và chưa có khả năng tự tham gia hoạt động xuất khẩu. Việc chỉ đạo điểm, nhận rộng các điển hình, mô hình HTX tiên tiến chưa kịp thời. Thực hiện các chính sách đối với kinh tế tập thể, nhất là chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng, đầu tư còn chậm chưa linh hoạt, nên chưa khuyến khích và thu hút được nhiều nguồn lực tham gia phát triển HTX. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng dành cho nông nghiệp, nông thôn của tỉnh còn ít, chưa có chính sách kích thích nông dân vào HTX. Những nguyên nhân nêu trên, cũng chính là những vấn đề đặt ra cho lãnh đạo các cấp, các ngành, các HTX của tỉnh phải tập trung nghiên cứu và có các giải pháp giải quyết một cách thiết thực, hiệu quả; phải xác định vấn đề tháo gỡ khó khăn cho các HTX, tạo điều kiện cho HTX tiếp tục phát triển như một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nhằm đưa sản xuất nông nghiệp của tỉnh đi lên.
Tóm lại, đối với một tỉnh có nhiều tiềm năng, điều kiện phát triển sản phẩm nông nghiệp quy mô hàng hóa như Kiên Giang, việc quán triệt, vận dụng chủ trương chỉ đạo: "Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ "bốn nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước)… Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến và thị trường, mở rộng xuất khẩu" 4mà Đại hội XI của Đảng đề ra, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến hết năm 2020 của tỉnh. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống nông dân, phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Kiên Giang một cách toàn diện, bền vững.
1. ĐCSVN: Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.67-68.
2. ĐCSVN: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.37
3, 4 ĐCSVN: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.54








