Xây dựng Luật Tài nguyên và Môi trường biển và kinh nghiệm từ mô hình ở Canada
Một trong những nguyên nhân cơ bản của hạn chế này do chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn tính chất của quan hệ pháp luật về TNB và hải đảo, bao gồm:
Thứ nhất,đây là mối quan hệ pháp luật có nội hàm rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành khác nhau như: Luật Dầu khí, Bộ Luật Hàng hải, Luật Thủy sản, Luật Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật BVMT, Luật Giao thông đường thủy…
Thứ hai,quan hệ pháp luật về TNB và hải đảo vừa là mối quan hệ pháp luật tổng hợp vừa là mối quan hệ chuyên ngành. Xét dưới góc độ tài nguyên, môi trường thì TNB có nội hàm rộng. Nó không chỉ bao gồm tài nguyên khoáng sản mà còn có các hệ sinh thái biển, các loài động, thực, vật biển. Xét dưới góc độ chính trị, kinh tế, xã hội thì TNB gắn liền với chủ quyền quốc gia trên biển. Nó còn là đối tượng hoạt động, cơ sở vật chất của một số ngành kinh tế quan trọng như nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản, du lịch, khai thác dầu khí, giao thông vận tải thủy… Hơn nữa, môi trường biển còn là không gian sinh tồn gắn bó khăng khít với cuộc sống của hàng triệu hộ gia đình ngư dân – những người mà cả cuộc đời gắn với biển cả.
Thứ ba,quan hệ pháp luật về TNB vừa có tính chất pháp lý vừa có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ. Tính chất pháp lý được biểu hiện đây là các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền mà pháp luật quy định. Nó có tính bắt buộc chung. Tính chất chuyên môn nghiệp vụ thể hiện đối với các quy phạm về quan trắc, khí tượng thủy văn biển hay những quy phạm về thăm dò, khai thác dầu khí…phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên ngành xây dựng. Trong quá trình xây dựng các quy định này, cơ quan có thẩm quyền phải thường xuyên tham vấn ý kiến chuyên môn của đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học của những lĩnh vực chuyên ngành đó.
Thứ tư,quan hệ pháp luật về TNB được hình thành dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và các văn kiện, nghị quyết liên quan đến lĩnh vực này. Mặt khác, TNB là một thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống của con người. Hơn nữa, vùng biển Việt Namlại tiếp giáp với vùng biển của các nước trong khu vực và nhiều hoạt động thương mại hàng hải, viễn thông quốc tế… được thực hiện trên vùng biển Việt Nam . Để giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế, tránh những xung đột gây ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và hữu nghị với các nước láng giềng, quan hệ pháp luật về TNB còn được xây dựng dựa trên các công ước, điều ước quốc tế về biển được Việt Nam ký kết và tham gia mà trước tiên là Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982…
Thứ năm,TNB thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều đạo luật chuyên ngành nên dễ nảy sinh xu hướng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu sự phối, kết hợp trong quá trình điều chỉnh. Vì vậy, cần thiết phải có mối quan hệ pháp luật xác lập cơ chế phối, kết hợp thống nhất. Đồng thời, xác lập sự quản lý nhà nước tập trung thống nhất giải quyết hài hòa các lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội, du lịch, bảo vệ môi trường… về biển thông qua việc điều tra, quy hoạch biển, xây dựng chiến lược, chính sách vĩ mô về khai thác, quản lý và bảo vệ biển;
Việt Namcó thể học tập gì từ mô hình xây dựng đạo luật độc lập điều chỉnh các quan hệ về tài nguyên và môi trường (TN&MT) biển, hải đảo của Canada . Năm 1996, Đạo luật Đại dương được ban hành ở Canada và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 31/01/1997 với những nội dung cơ bản như: Khẳng định quyền tài phán ngoài khơi của Canada phù hợp với Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982; công nhận các nguyên tắc pháp luật quốc tế trọng yếu bao gồm: Phát triển ổn định; phương pháp hệ sinh thái; phương pháp phòng ngừa; quản lý tổng hợp; quy định Bộ trưởng Bộ Đại dương và Nghề cá chủ trì xây dựng và thực thi các kế hoạch quản lý tổng hợp cho tất cả các hoạt động ảnh hưởng đến các vùng cửa sông, vùng ven biển đến ranh giới thềm lục địa; ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Đại dương về Nghề cá phối hợp xây dựng và thực thi hệ thống quốc gia các khu bảo tồn biển; cho phép Chính phủ Liên bang thông qua các quy định thiết lập và phân vùng các khu bảo tồn; các hoạt động bị cấm.
Theo mô hình này, Canada xây dựng một đạo luật điều chỉnh tổng thể về TN&MT biển. Hay nói cách khác, để quản lý, khai thác và bảo vệ TNB một cách bền vững, Canada đã xây dựng một đạo luật khung (hay còn gọi là đạo luật gốc) quy định về quản lý, bảo vệ TNB gắn với việc BVMT. Đạo luật này tập trung điều chỉnh hoạt động quản lý TN&MT biển ở tầm vĩ mô thông qua việc khẳng định chủ quyền quốc gia đối với các vùng biển dựa trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982; điều tra, khảo sát, xây dựng quy hoạch tổng thể về TNB; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ hệ sinh thái biển; hợp tác quốc tế trong việc ngăn ngừa, phòng chống ô nhiễm môi trường biển… Luật về đại dương của Canada xác lập những định hướng cho các hoạt động khai thác, sử dụng TNB song hành với việc BVMT biển, giữ gìn sự đa dạng các hệ sinh thái biển một cách bền vững; mô hình xây dựng các đạo luật chuyên ngành điều chỉnh những hoạt động khai thác, sử dụng TNB, hải đảo.
TN&MT biển, hải đảo là lĩnh vực rộng lớn, đan xen các hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng của nhiều cấp, nhiều ngành vào những mục đích khác nhau. Chính sự đan xen nhiều hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng nên TN&MT biển, hải đảo liên quan đến lợi ích của các bộ, ngành, địa phương. Dưới góc độ pháp lý, việc điều chỉnh, giải quyết hài hòa về lợi ích giữa các chủ thể khác nhau trong quản lý, khai thác, sử dụng TN&MT biển, hải đảo là một công việc không hề đơn giản. Nhiều nước đã lựa chọn mô hình không xây dựng một đạo luật độc lập để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc quản lý, khai thác, sử dụng TN&MT biển, hải đảo. Các hoạt động này được điều chỉnh bởi các đạo luật chuyên ngành. Điều này không tránh khỏi sự chồng chéo, không thống nhất trong việc quản lý nhà nước về TN&MT biển, hải đảo bằng pháp luật.
Còn ở nước ta, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và vị trí của biển, hải đảo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như thực trạng quản lý TN&MT biển, hải đảo, trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ phân công, Bộ TN&MT mong muốn xây dựng một đạo luật về TN&MT biển, hải đảo dựa trên quan điểm quản lý tổng hợp, bảo đảm quản lý thống nhất, liên ngành, liên vùng, đồng thời hài hòa lợi ích chung giữa các bên khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo đảm phát triển bền vững. Đạo luật này hướng vào việc điều chỉnh các quan hệ về quản lý nhà nước về TN&MT biển, gắn việc khai thác, sử dụng TNB với việc BVMT biển một cách bền vững thông qua việc ban hành các quy định về nội dung quản lý nhà nước về TN&MT biển; điều tra, khảo sát, xây dựng quy hoạch về TN&MT biển; nghiên cứu khoa học về biển và hợp tác quốc tế trong BVMT biển…








