Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 17/10/2007 23:45 (GMT+7)

Xây dựng hệ thống thuật ngữ và danh pháp hoá học Việt Nam (Phần 1)

I.Đại cương về danh pháp hoá học

Một cách đơn giản, danh pháp hoá học được hiểu là phương pháp hay các quy tắc gọi tên các chất hoá học (nomenclature).

Danh pháp do Hiệp hội Quốc tế Hoá học Thuần tuý và Ứng dụng (International Union of Pure and Applied Chemistry) xây dựng được gọi là danh pháp IUPAC. Danh pháp IUPAC dựa trên sự phân loại các hợp chất hoá học theo cấu trúc phân tử của chúng. Hệ thống các hợp chất có dạng công thức cấu trúc giống nhau thì tên gọi cũng có dạng giống nhau. Tên này được gọi là tên hệ thống (systematic names). Như vậy, danh pháp IUPAC cũng bao gồm cả cách viết công thức cấu trúc của các hợp chất.

Ví dụ:

K 3[Fe(CN) 6] Potassium hexacyanoferrate (III)

Na 2[NiCl 4] Sodium tetrachloroniccolate (II)

Ca [Pt(NO 2) 4] Calcium tetranitroplatinate (II)

Đối với mỗi loại hợp chất mà trong đó có các hợp chất có dạng cấu trúc giống nhau thì sẽ có các quy tắc cụ thể quy định cách viết công thức cấu trúc và cách đọc tên các hợp chất. Nếu biết cách gọi tên một hợp chất thì ta sẽ biết biết cách gọi tên tất cả các hợp chất có cùng dạng cấu trúc. Đó là tính hệ thống của danh pháp IUPAC.

Trong các ví dụ trên, ta thấy trong tên hệ thống có tên của các nguyên tố (với vai trò của các ion dương) như potassium, sodium, calcium, tên của ion trung tâm cùng với hậu tố ate(ferrate, niccolate, platinate), tên các phối tử cyano, chloro, notro cùng các phụ tố chỉ số phối tử (phụ tố nhân) như hexa, tetra và số oxi hoá (III, II, I) của ion trung tâm. Trong trường hợp chung, ta gọi đó là các “cấu từ” của tên hệ thống. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoá học, sau một khoảng thời gian định kỳ nào đó, danh pháp IUPAC lại được bổ sung.

Danh pháp IUPAC như vậy có tính hệ thống, tính quốc tế và tính hiện đại.

Nhiều ý kiến thống nhất cho rằng cần phải xây dựng hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam trên cơ sở của hệ thống danh pháp IUPAC hay nói một cách ngắn gọn, cần phải Việt hoá hệ thống danh pháp IUPAC.

Điều đó có nghĩa là ta phải viết và đọc tên các cấu từ trong tên hệ thống theo thứ tự đúng các quy tắc do IUPAC đề ra nhưng các thuật ngữ cần phải được phiên chuyển ra ngôn ngữ Việt Nam (Viết thế nào, đọc thế ấy theo ngữ âm Việt Nam) để mọi người Việt Nam khi đã biết chữ quốc ngữ thì có thể viết và đọc tên các hợp chất một cách dễ dàng.

Sự Việt hoá hệ danh pháp IUPAC là rất cần thiết vì đề tài mà chúng ta thực hiện là xây dựng hệ danh pháp hoá học Việt Namvới mục đích là phục vụ cho việc học tập môn hoá học của người Việt Nam . Muốn học tập hoá học thì trước hết phải biết cách đọc tên các chất hoá học, mà người Việt Nammuốn đọc tên các chất hoá học thì tên các chất hoá học phải được diễn tả bằng ngôn ngữ Việt Nam .

Với các ví dụ được nêu ở trên, ta tạm phiên chuyển như sau:

K 3[Fe(CN) 6] kali hexaxianoferat (III)

Na­ 2[NiCl 4] natri tetracloronicolate (II)

Ca [Pt(NO 2) 4] canxi tetranitroplattinat (II)

Ta dễ dàng thấy có sự đồng dạng giữa các công thức và tên gọi các hợp chất, diễn tả bằng hai ngôn ngữ khác nhau. Nếu nắm chắc được danh pháp hoá học Việt Nam , ta dễ dàng hiểu được tên các chất hoá học được viết trong các sách và các tạp chí của các nước phát triển. Sự Việt hoá hệ thống danh pháp IUPAC cũng có nghĩa là sự quốc tế hoá ngôn ngữ hoá học Việt Nam .

Một số ý kiến đề cập đến khái niệm hội nhập. Sự vận dụng danh pháp IUPAC vào ngôn ngữ Việt Nam là một sự hội nhập có tính căn bản. Hội nhập cũng không ngoài mục đích là phục vụ cho việc học tập hoá học của người Việt Nam .

Danh pháp IUPAC sử dụng hai hậu tố chính là ate,có thể đơn giản hoá là atvà hậu tố ide, có thể phiên âm thành iđe, trong đó hậu tố iđetương ứng với hậu tố ua(phiên chuyển từ ure, tiếng Pháp) mà ta đang sử dụng.

Nếu với danh nghĩa kế thừa (thực tế là do quán tính) tiếp tục sử dụng hậu tố uatrong hệ thống danh pháp IUPAC thì đúng là chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia” và điều này có thể còn liên quan đến vấn đề ngữ pháp và một số vấn đề khác như đã được đề cập đến.

Tốt nhất ta nên khắc phục quán tính nhất thời (thời của chúng ta, khoảng 50 năm qua), nghĩ đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai mà mạnh dạn đổi uathành iđecho thống nhất với danh pháp IUPAC.

II. Thống kê sơ lược các loại thuật ngữ

Trước hết ta thống kê sơ lược các loại thuật ngữ để trên cơ sở đó, sử dụng một phương pháp xử lý thích hợp cho từng loại thuật ngữ.

1. Các thuật ngữ liên quan đến tên gọi các chất hoá học

a. Tên các nguyên tố hoá học cùng tên các thuật ngữ dẫn xuất (ion, phối tử, gốc)

ví dụ: brom bromiđe, bromo, bromo

iot (?) iođiđe, iođat, oiđo

nitơ (?) nitriđe, nitriđo, nitrilo

b. Tên các nhóm nguyên tử

- Các ion phức: sunfat, nitrat, cacbonat, azide (N 3-)

- Các gốc: (OH) hydroxit, (CO) cacbonyl, (NO) nitrosyl, (CH 3) metyl, (ClO) clorosyl…

- Các phối tử: (H 2O) aqua, (OH) hydroxo, (NH) imiđo, (SO 3) sunfito, (N 3) aziđo

c. Tên các chất cơ sở, metan, benzen, naptalen, axeton, etylen (?), glucose(?)

d. Các hậu tố (endings)

ide (iđe)

ate (at)

2. Tên các nhóm nguyên tố, các loại chất

a. Các nhóm nguyên tố: kim loại kiềm, kim loại thổ kiềm, khí hiếm (trơ, quý)…

b. Các loại chất: các hợp chất mạch hở (không vòng), các hợp chất mạch vòng, các hợp chất thơm, axit, hyđroxit, adehit, rượu, ete…

3. Tên các phụ tố (affixes)

a. Phụ tố nhân (multiplying affixes): mono, đi, tri, tetra.

b. Phụ tố cấu trúc (structural affixes): cis -, trans -, cyclo -, sym -, asym -.

4. Các thuật ngữ liên quan đến hoá lý thuyết, hoá thực nghiệm

a. Lý thuyết chung (hoá cấu tạo, hoá lý)

Nguyên tử, phân tử, liên kết, hoá trị, hoá thế, nội năng, entropi (?), xác suất, tổng trạng thái…

b. Lý thuyết hoá vô cơ, hoá hữu cơ

- Thuyết điện ly, thuyết mesomeri

- Cơ chế phản ứng, các loại phản ứng (phản ứng chuyển vị, hoán vị, ái nhân, ái điện tử…)

- Tính chất các chất (tính quang hoạt, tính phân cực…)

……

c. Các phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích

- Phương pháp tổng hợp

- Phương pháp phổ (phổ hồng ngoại, tử ngoại, khả kiến, phổ khối lượng, phổ cộng hưởng từ hạt nhân..)

d. Các thao tác thực hành: cất, cất phân đoạn, cất cuốn hơi nước, cất chân không, lọc, rửa, sấy…

e. Các thiết bị nghiên cứu, các dụng cụ thực nghiệm, (áp kế, nhiệt kế, quang phổ kế, khối phổ kế, cực phổ kế, máy ly tâm, bình chiết, bình hình nón, cốc thuỷ tinh, cốc sứ, cốc bạch kim, phễu lọc…)

(xem tiếp bài sau)

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.