Xã hội hoá nghiên cứu khoa học như thế nào?
Chẳng cần phải nói lại, chúng ta ai cũng biết rằng tình trạng nghiên cứu khoa học của chúng ta rất yếu kém. Chúng ta có bao nhiêu viện và trung nghiên cứu? Mỗi viên hoặc trung tâm nghiên cứu ấy có bao nhiêu cán bộ nghiên cứu? TheoVietnamnet, trong năm 2006, kinh phí sự nghiệp cho khoa học là 750 tỷ đồng và kinh phí đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở cho khoa học là 1.200 tỷ đồng. Thế nhưng hàng năm, có bao nhiêu đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị được thực hiện? R ất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành thực chất chỉ nhằm giải ngân. Nhiều đề tài sau khi hoàn thành và nghiệm thu chỉ xếp vào ngăn kéo chứ rất ít giá trị thực tiễn. Tình trạng này không chỉ đơn thuần là sự lãng phí tiền của của nhân dân, mà còn dẫn đến một sự mất mát lớn hơn, đó là sự suy thoái đạo đức của tầng lớp trí thức. Bởi lẽ nguồn kinh phí bị lãng phí đó chính là từ tiền thuế của người dân, mà đại đa số là những người nông dân nghèo đang còng lưng một nắng hai sương trên đồng ruộng. Vậy mà những người đang lãng phí mồ hôi nước mắt của họ lại là những người làm công tác nghiên cứu khoa học, những người biết rõ hơn ai hết tính chất vô ích của các đề tài nghiên cứu của mình.
Khi tôi nói những điều này với một đồng nghiệp, anh ta phản bác: “Điều đó ai cũng biết. Và thật ra trong số các nhà nghiên cứu của chúng ta, chẳng phải ai cũng thích sử dụng tiền thuế của dân theo cách thức như vậy. Vấn đề là đồng lương quá thấp. Với lại, anh có giải pháp nào không”. Tôi viết bài này cũng chỉ nhằm đưa ra một vài đề xuất mang tính cá nhân.
Theo tôi, về đại thể, chúng ta nên chia các nghiên cứu thành hai loại: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Vì các nghiên cứu ứng dụng nói chung có thể nhanh chóng thương mại hoá và thu được lợi nhuận, chúng ta nên để cho thị trường điều tiết. Nhà khoa học có thể nhận đơn đặt hàng của doanh nghiệp, hoặc họ có thể nhận đầu tư từ các quỹ khác nhau. Điều này nghĩa là, trừ những nghiên cứu ứng dụng đặc biệt quan trọng cần hỗ trợ của ngân sách nhà nước, chúng ta hãy để cho các nhà khoa học làm việc bằng kinh phí từ các doanh nghiệp và các nguồn phi chính phủ khác.
Các nghiên cứu cơ bản, trái lại, khó có thể được thương mại hóa để sinh lời nên cũng khó thu hút được các nguồn đầu tư tư nhân, vì thế cần có sự tài trợ của nhà nước. Tuy nhiên, để tránh lãng phí, chúng ta cần phải có một hội đồng tuyển chọn thật công minh và khắt khe. Hội đồng này tốt nhất phải có sự tham gia của các chuyên gia quốc tế độc lập. Theo tôi, chúng ta cần phải kiên quyết chỉ đầu tư cho những đề tài thực sự hứa hẹn có giá trị. Mà đã quyết định đầu tư thì phải đảm bảo điều kiện tốt nhất có thể để đề tài nghiên cứu được tiến hành thuận lợi, theo đúng chuẩn mực của nghiên cứu khoa học.
Vậy nguồn kinh phí cho nghiên cứu còn lại để làm gì? Và hàng trăm cán bộ của các Viện nghiên cứu, họ phải làm gì? Theo tôi, trong khi chúng ta chưa có khả năng tiến hành những nghiên cứu thực sự có giá trị, chúng ta nên dùng nguồn kinh phí này cho việc việc dịch thuật các công trình quan trọng nhất của thế giới. Ngành nào dịch ngành ấy. Chuyên gia lĩnh vực nào dịch lĩnh vực ấy. Theo tôi, dịch thuật đem lại nhiều lợi ích đồng thời:
Thứ nhất,đó là con đường tối ưu để chúng ta nhanh chóng nắm bắt các đỉnh cao trí tuệ nhân loại, giúp trí thức Việt Nam , hòa nhập với các đồng nghiệp trên toàn thế giới. Trong quá trình dịch thuật, bản thân người dịch cũng trau dồi thêm kiến thức của mình, trở thành chuyên gia trong lĩnh vực đó.
Thứ hai,đó là cách để các cán bộ nghiên cứu được làm việc thực sự, đóng góp thực sự, và qua đó nhận được thu nhập xứng đáng với lao động của mình. Họ sẽ không còn phải day dứt vì sử dụng lãng phí đồng tiền thuế của người dân. Đó cũng là cách để góp phần xây dựng một đội ngũ trí thức chất lượng cao.
Vì thế, tôi đề nghị coi dịch thuật là nhiệm vụ trung tâm của các viện nghiên cứu trong thời điểm hiện nay.
Cũng liên quan đến kinh phí cho nghiên cứu khoa học, để thu hút các nguồn đầu tư tư nhân, theo tôi, chúng ta nên khuyến khích bằng chính sách thuế. Chẳng hạn, nếu các doanh nghiệp tài trợ cho nghiên cứu khoa học cơ bản (các đề tài được hội đồng quốc gia có thám vấn quốc tế lựa chọn), khoản tài trợ có thể được khấu trừ một phần hay toàn bộ vào thuế. Như vây, chỉ thông qua chính sách, chúng ta không chỉ xã hội hoá được các hoạt động nghiên cứu, mà còn tạo nên mối quan hệ khăng khít giữa nghiên cứu và sản xuất, đồng thời tạo nên một nhân tố nữa để đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân, giảm bớt tham nhũng trong hoạt động nghiên cứu khoa học.








