“Vươn ra biển lớn” tư duy về phát triển kinh tế biển
Thế kỷ XXI sẽ là “Thế kỷ của đại dương”. Còn ở Việt Nam, giống như một sự hưởng ứng, hay là một loại bằng chứng xác nhận, trong thời gian gần đây, đặc biệt rộ lên trên các phương tiện thông tin đại chúng những câu khẩu hiệu tràn đầy khí thế như “Vươn ra biển lớn”, “Cất cánh”, “Bay lên Việt Nam”. Những câu khẩu hiệu này có một điểm chung: Cùng diễn tả tư thế và triển vọng phát triển của đất nước trong giai đoạn tới, đều biểu đạt hào khí, quyết tâm và tâm trạng phấn chấn của mỗi người dân Việt Nam trước vận hội mới của dân tộc mà những biến cố lớn của năm hội nhập quốc tế 2006 đã mở ra rõ ràng hơn bao giờ hết. Ở tầm khái quát chiến lược, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X, 2 - 2007) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” cũng đã chính thức ghi nhận ý kiến coi thế kỷ XXI là “Thế kỷ của đại dương”. Với sự ghi nhận này, chiến lược biển, khuôn lại trong phạm vi kinh tế biển đã mở rộng nội hàm phát triển kinh tế, nội hàm chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nghị quyết khẳng định rằng “ngày nay biển càng có vai trò to lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước”. Chưa bao giờ trong tâm hồn người Việt Nam, biển lại gây xôn xao nhiều như vậy. Trong mỗi người Việt Nam, biển từng sống nhìn chung là bình lặng. Nếu nó có gây “xôn xao” thì cũng chỉ là đôi chút, bằng vẻ đẹp lãng mạn, được thi ca và tiểu thuyết cô đúc lại. Hay dữ dội hơn, bằng nỗi đau mất mát mà bão tố đại dương gây ra. Còn bây giờ, dường như sự xôn xao ấy đã đẩy lên “tầm chiến lược quốc gia”, đã trở thành khái niệm gắn với “vận hội”, với “sự nghiệp phát triển đất nước”. Rất to tát và trọng đại.
“Vươn ra biển lớn” có nghĩa là gì? Với chức năng định vị tọa độ, thuật ngữ đó hàm nghĩa dân tộc Việt Nam hoặc giả vẫn đang ở trên đất liền, hoặc giả đang ở trên sông, hay cùng lắm là mới vươn ra và đang lặn lội trên “biển nhỏ”. Thuật ngữ “vươn ra biển lớn” có nghĩa là Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thực sự ra biển lớn. Giống như 20 năm trước đây, và cũng như hàng ngàn năm trước, xét theo tọa độ “tĩnh”, chúng ta vẫn chưa ra khơi, vẫn đang ở trên bờ. Nhưng cần nói rõ hơn thực chất của vấn đề. Khẩu hiện “vươn ra biển lớn” hôm nay có nghĩa là Việt Nam vẫn đang “đứng trước biển”, đúng như tên của cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn viết cách đây mười mấy năm, một cuốn sách chứa đầy sức cổ động cho một cuộc ra khơi. Một dân tộc - biển, sau hàng ngàn năm, vẫn trong tư thế đứng trước biển - đó chính là vấn đề “Tại sao vậy”.
Việt Nam là một quốc gia biển. Biển ôm suốt chiều dài đất nước với hơn 3000 km bờ biển. Ngoài biển, Việt Nam có hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ và hơn 1.000.000 km2 lãnh hải thuộc chủ quyền, dân tộc Việt Nam, dòng giống Lạc Long Quân, với hình xăm rồng trên cơ thể, từ ngàn xưa, là dân tộc biển. Nhưng, nhìn thực chất của khái niệm từ nhiều góc độ, phải thừa nhận rằng nước ta chưa phải là một cường quốc biển, chưa phải là dân tộc chinh phục và ngự trị đại dương theo nghĩa đầy đủ của từ. Xét trong tầm với năng lực, biến đổi với chúng ta vẫn chỉ là biển gần bờ, biển của phương thức khai thác “mò cua bắt ốc”. Chúng ta tiến ra biển, chinh phục và khai thác nó chủ yếu dựa vào thuyền gỗ, cánh buồm nâu và mành lưới thủ công. Vì thế, dẫu là “biển bạc”, qua nhiều thế kỷ, biển vẫn chưa làm cho mấy người Việt Nam trở thành giàu thật sự. “Biển bạc” vẫn chưa đưa nước Việt Nam thoát khỏi trình độ một quốc gia “đang phát triển thu nhập thấp”. Thậm chí, nếu tạm bỏ phần lãng mạn đi, dù vẫn nuôi người, cung cấp các sản vật cho con người đến nay, biển vẫn là nơi chứa đựng nhiều rủi ro, có nguy cơ mang lại đói nghèo cho dân biển. Trong tính thực tiễn, khía cạnh rủi ro nhiều khi còn mang tính biểu tượng cho biển cao hơn cả khía cạnh giàu có. Cùng lắm, biển cũng chỉ là biểu tượng của sự giàu có tiềm năng mà đến nay, vẫn chưa chuyển thành hiện thực theo đúng nghĩa cho người Việt Nam.
Dải đất miền Trung là nơi có biển và nhiều bãi biển đẹp nhất. Đó thực sự là “biển vàng”, xét về mặt tiềm năng. Nơi đây, dân sống dựa vào biển, có lẽ nhiều hơn nhiều nơi khác. Ấy vậy mà cho đến nay, đây vẫn là vùng đất nghèo khó, vất vả bậc nhất. Bão nhiều, với sự tàn phá kinh hoàng, càn đi quét lại dải đất này mỗi năm. Hàng năm có đến mấy cơn bão lớn khủng khiếp tràn qua mà chúng ta đã nhiều lần chứng kiến. Sau mỗi lần như vậy, thành quả phát triển mà dân nơi đây cực nhọc gây dựng, lại bị xóa sổ, làm cho cuộc sống của họ dường như lại về điểm xuất phát.
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam gắn với quá trình di dân từ rừng xuống biển. Đó là quá trình mở rộng không gian sinh tồn và mở mang các điều kiện sống. Sự mở mang đó luôn hướng về phía biển. Nhưng, mặc dù biển là bao la và định hướng mở mang là như vậy, thực tế cho thấy đó là một sự mở mang có giới hạn và bị giới hạn. Về xu hướng lịch sử, người Việt luôn tiến về phía biển, ra mở hướng biển. Nhưng về thực chất, tổ tiên chúng ta lại luôn dừng lại ở ven bờ. Khái niệm “dừng lại ở ven bờ” không chỉ là một hình ảnh biểu đạt đúng nghĩa đen của vấn đề - sự dừng bước trong không gian của quá trình phát triển. Nhưng sâu xa hơn, và đúng không kém nếu xem xét thuật ngữ đó như một khái niệm phản ánh phương thức sinh tồn và phát triển của dân tộc.
Từ xa xưa, đã có người Việt sống ở các đảo xa. Bằng sự hiện diện ở Hoàng Sa, Trường Sa, Bạch Long Vỹ, họ khẳng định chủ quyền quốc gia ở những mảnh đất này. Với họ và nhờ họ, Việt Nam đích thực là một quốc gia biển, có đầy đủ chủ quyền biển đảo. Nhưng ở khía cạnh phát triển, dù ở và sống giữa biển khơi mênh mông và lồng lộng, phương thức sống của những người Việt đó vẫn là phương thức “ven bờ”. Có chăng quá trình mở rộng không gian sống, bằng việc “vươn ra biển”, tổ tiên chúng ta chuyển lối kiếm sống “ở mom sống”, bổ sugn thêm cho nó phương thức “đánh bắt ven bờ (biển)”. Nhưng vẫn chỉ là từ mom sông ra ven biển, với bản chất, trình độ, văn hóa (chinh phục) và bản tính (mạo hiểm) hầu như không thay đổi. Trong tâm thức và cả trong sự tồn tại thực tế, đối với người Việt, biển là nơi kiếm sống, chủ yếu ở cấp độ sinh tồn tối thiểu. Biển ít thực sự là và cũng không chủ yếu là đối tượng của những nỗ lực khám phá và chinh phục để phát triển. Khát vọng biển không phải là “vượt đại dương”, tìm những bờ bến mới như Megienlang hay Colongbo đã làm, mà chỉ là mong ước “tôm cá đầy ghe”.
Với mục tiêu khiêm tốn, hạn hẹp như vậy, không gian ven bờ, nguồn tài nguyên ven bờ là tạm đủ. Công cuộc khai thác và chinh phục biển với “thuyền nan, mành lưới và chiếc cần câu tay” vẫn dựa trên cách thức cổ truyền của ngàn đời. Chính sự cốt kết của những yếu tố đó tạo nên mọt vòng luẩn quẩn, mà hạt nhân của nó vẫn là cái phương thức “tự cấp, tự túc” cổ truyền của nền kinh tế nông dân. Ra đến biển nhưng vẫn với cái công cụ đó, phương thức sinh tồn đó, khi tầm nhìn biển cả chỉ là sự nối dài tầm nhìn đất liền chật hẹp và nghèo khó của người nông dân Việt để trở thành tầm nhìn ven bờ, bị giới hạn bởi thao tác quay lưng ra biển để ‘mò cua, bắt ốc’ đương nhiên không thể ra biển lớn.
Để ra biển lớn, phải cần nhiều thứ. Không chỉ mơ ước lớn mà phải có cả tầm nhìn lớn. Và còn phải có đủ ý chí để vượt qua cái ao nhà “dù trong dù đục” đầy kỷ niệm ấu thơ. Nhưng, quan trọng hơn, phải có một tư duy mới về phát triển, dựa trên nền những phương tiện, công cụ và công nghệ mới. Không có những cái đó, dù có yêu biển bao nhiêu, dù có gan dạ bao nhiêu, chúng ta vẫn cứ sẽ mãi đứng trên bờ, không thể nhảy xuống nước để bơi ra biển lớn.








