Vui say tiếng khèn H’Mông
Nghe náo nức như tiếng khèn giục gọi
Lưng ngựa đường xa theo tiếng tìm về
Bản Mèo đó chông chênh mây trắng núi
Mưa nắng xòe ô điệp khúc chơi vơi…
Ơi, điệu khèn sao mà hay đến thế!
Nhún nhẩy đôi chân, lom khom đong đưa
Réo rắt âm vang lời rừng gọi núi,
Đôi bạn trẻ H’Mông ta yêu nhau đi…
Đã lâu rồi mới lại nghe tiếng khèn (kềnh) tự tình, tiếng khèn chào mừng cuộc sống và tình yêu của người H’Mông. Người H’Mông sống rất tình cảm, có chuyện gì vui buồn đều bộc lộ qua tiếng khèn, kèn lá, đàn môi, sáo lưỡi gà và nhiều nhạc cụ quen thuộc. Nhất là khi gia đình có khách, vui bên bát rượu, bát mèn mén, bát thắng cố… thì thể nào cũng mang khèn ra thổi, giai điệu mượt mà đằm thắm, đậm chất dân dã chân chất như tâm hồn người H’Mông.
Người H’Mông chia thành nhiều nhóm như Mông Đú (Mông Đen), Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Súa (Mông Mán) tập trung chủ yếu ở các vùng núi cao của tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng và Nghệ An. Ở mỗi nhóm, tiếng khèn có khác nhau về cung bậc, tuy nhiên đều là những khúc biến tấu ngẫu hứng phát khởi từ tình cảm con người. Chính vì vậy, khi thì nghe thấy tiếng khèn nhẹ nhàng lả lướt như một làn sương mỏng khoác lên muôn vật, khi lại thấy âm điệu cuồng say như tiếng nước sôi lửa bỏng, tiếng gió từ rừng dội về hoặc tiếng thác đổ rền vang. Cũng có lúc thấy những thanh âm xôn xao như tiếng người nói kẻ cười đặc trưng ở những phiên chợ vùng cao.
Từ xa xưa, tiếng khèn đã là món ăn tinh thần, là bản sắc của người H’Mông. Tiếng khèn xuất hiện gần như trong tất cả các hoạt động đời sống của dân tộc. Với người H’Mông, tiếng khèn báo hiệu những tín hiệu sống, ở đâu có sự sống ở đó có tiếng khèn, và ở đâu có tiếng khèn cũng sẽ có cuộc sống vui tươi, thanh bình. Tiếng khèn còn là điều giao ước cho thấy thị tộc sắc tộc, và người ta ra nhận nhau qua tiếng khèn.
Những điệu khèn của người H’Mông luôn gắn liền với những câu chuyện kể từ ngày xửa ngày xưa của đồng bào, và giờ đây là những câu chuyện về cuộc sống văn hóa mới cùng những thành tựu của đất nước, như chuyện đánh giặc, chuyện có người vừa dựng được căn nhà mới, chuyện các phương tiện truyền thống máy móc hiện đại đã về thôn bản, và hay nhất vẫn là chuyện tình yêu. Dường như chiếc khèn sinh ra là để kể lại những mẩu chuyện tình yêu, rằng có đôi trai gái yêu nhau, có chàng trai đã phải lòng một người con gái và rằng... Nghe qua đã thích, khi biết chuyện càng hứng thú hơn. Với những cặp tình nhân, con trai con gái đến tuổi yêu, tiếng khèn là lời tỏ tình hồn nhiên của chàng trai đối với bạn gái, và không chỉ là hình thức biểu diễn khoe mẽ mà còn là lời nhắn nhủ hết sức tha thiết, cháy bỏng, gấp gáp đến nỗi người nghe phải háo hức trong lòng, tai nghe, chân đi theo tiếng khèn. Có người nói vui nếu một cô gái nghe thấy tiếng khèn của người yêu, có trói cô ấy lại cô ấy cũng giựt dây để bước theo…
Đôi tám con trai con gái Mông đã tự đi tìm người yêu. Các bạn trẻ thường tìm tới những buổi chợ và ở đó các chàng trai sẽ thổi khèn, các cô gái lặng lẽ nghe và đằm mình trong tiếng khèn của anh chàng khác giới. Nếu một cô gái nào đó hiểu tiếng khèn của “người ta” nói gì, hai tâm hồn đồng điệu họ sẽ nên duyên.
![]() |
Chiếc khèn phức tạp hơn và không phải ngẫu nhiên mà có được mặc dù cũng được làm từ cây cỏ hoang sơ. Khèn gồm có ba bộ phận: cán tức ống thổi, thân tức nơi để gắn đút các ống khèn và dĩ nhiên cuối cùng là ống khèn. Cán được làm bằng gỗ vót tròn, trên nhỏ dưới to, và ở đầu nhỏ quấn lá đồng làm đầu ống thổi, từ đây lui xuống chừng 40 - 60 centimét là chỗ thân khèn, được đục sáu lỗ chia làm ba hàng để đút sáu ống khèn là sáu đốt trúc ngắn dài khác nhau và cũng được đục lỗ đặt lưỡi gà tạo nên các âm vực, mỗi ống một âm vực, và các lỗ trên đó cũng góp phần giúp âm thanh được đa dạng.
Trời phú cho con trai H’Mông có một sức khỏe phải nói là dẻo dai, tráng kiện. Anh nào cũng có bộ ngực căng phồng giữ được nhiều hơi cho tiếng khèn không ngắt quãng, và đôi chân dẻo để có thể múa lượn điêu luyện trên mặt đất, khéo léo lắc lẻo trên những cây cọc xào lêu đêu và đôi bàn tay thì thật mềm mại đưa đẩy cho những ống khèn chao lượn tựa những cánh chim bay giữa trời xanh bao la.
Không chỉ thổi khèn, con trai H’Mông còn múa khèn, động tác rất thành thạo gồm nhảy chéo chân, xoay quanh, vờn khèn, đi giật lùi, lăn lộn… ước chừng hơn 30 động tác. Đáp lại điệu múa khèn của các chàng trai, các cô gái cũng ngả những chiếc ô che trên đầu vào múa và hát cùng: “ Vang vọng núi rừng tiếng khèn gọi bạn/Điệu múa khèn nghiêng ngả tán ô che”.Những lúc như vậy trời đất bỗng nhiên gần hơn, con người trở nên xinh đẹp hơn ngày thường.
Khi còn bé, các em trai H’Mông đã phải biết thổi kèn (để sau này tìm vợ), kế đó để tham gia vào các dịp lễ tết hội hè của gia đình và thôn bản. Các em được người lớn dạy cho các bài căn bản gắn liền với dân ca, dân nhạc. Thế nhưng khi đã có vốn kiến thức kha khá, thanh niên tự do thoải mái sáng tác nhiều khi không tuân theo quy luật nào, các điệu nhạc bổng trầm chịu ảnh hưởng bởi tâm lý, tình cảm và tính cách của người chơi. Người H’Mông ít khi chê trách người thổi khèn. Nếu thổi khèn hay thì cả xóm thương nhớ. Thổi chưa hay vẫn được yêu mến, được sự kính trọng của các em thơ nhỏ hơn khát khao thổi được như các anh.
Con trai Mông đi đâu cũng mang theo chiếc khèn, và có thể thổi từ lúc đi cho tới lúc về, trên đường đi chơi cảm cảnh đẹp nảy sinh thi hứng thì rút chiếc khèn ra thổi, từ nhà tới chợ gặp bạn thân/ bạn gái, gặp đám cưới hay tang ma cũng thổi khèn, hội mùa xuân hội mùa hè, ngày chào mừng khách quý, sự kiện của bản làng, các trò chơi, các buổi trình diễn võ thuật… thì luôn có tiếng khèn góp vui. Chính bởi mục đích giao lưu tình cảm vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng nên ở đâu có khèn ở đó có hội họp vui tươi.
Khèn được xem là vật tượng trưng cho tâm hồn, khát vọng, tình yêu và tuổi trẻ của người H'Mông. Đến chơi bản làng người Mông, chưa nghe khèn thì thôi, chứ đã nghe rồi, chắc chắn chẳng muốn về.