Vỗ rung lồng ngực
Đáp: Đờm kích thích niêm mạc phế quản gây phản xạ ho. Ho có tác dụng tống đờm và các dị vật ra ngoài. Vỗ rung lồng ngực là một trong những loại kỹ thuật áp dụng cho các bệnh phổi có tiết nhiều đờm, gồm các bệnh giãn phế quản, viêm phế quản mạn tính, hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, apxe phổi ở giai đoạn ộc mủ, lao phổi, những trường hợp ốm lâu ngày, ít cử động, người bị liệt có nhiều đờm ứ đọng ở đáy phổi. Kỹ thuật này gồm 2 phần vỗ và rung.
Vỗ trên lồng ngực: Dùng tay vỗ nhẹ vào ngực nhằm tạo nên các sóng xung lực tác động qua thành ngực truyền vào phổi, làm các cục đờm ứ đọng dính vào phế quản bị bong ra, được dẫn lưu vào phế quản lớn và ho tống ra ngoài. Dùng bàn và ngón tay khép chụm lại, vai, khuỷu tay, cổ tay người vỗ phải giữ ở tư thế thoải mái, mềm mại. Hai tay vỗ nhịp nhàng, đều đặn, di chuyển trên thành ngực từ cao xuống thấp. Vỗ liên tục 3-5 phút, không tuỳ tiện dừng lại. Sau đó chuyển sang động tác rung.
Rung lồng ngực: Lắc và rung lồng ngực bổ sung cho kỹ thuật vỗ, tạo lực thúc đẩy đờm dễ thoát ra ngoài. Để hai bàn tay áp xuống ngực người bệnh, hoặc đặt tay nọ chồng lên tay kia ở vị trí sau lưng, trước ngực hoặc bên trái, phải của lồng ngực. Rung với lực vừa phải, nhẹ nhàng, tránh gây đau hoặc khó chịu. Nếu đặt hai tay đè lên nhau thì dùng bàn tay phía trên rung là được.
Khi dẫn lưu đờm bằng kỹ thuật vỗ rung, tổng thời gian phải không quá 30-40 phút. Người nhà bệnh nhân có thể thực hiện kỹ thuật này ngay tại nhà. Nhớ chuẩn bị điều kiện giường nằm thoải mái, thoáng. Khi làm, nên quan sát sắc mặt người bệnh, nếu thấy tím tái, khó chịu thì phải ngừng vỗ và rung.
Nguồn: KH&ĐS Số 42 Thứ Sáu 26/5/2006