Vinh dự của một nhân cách khoa học toàn vẹn
Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn của Pháp được thành lập từ năm 1663, là một trong những Viện Hàn lâm lâu đời và danh tiếng của Học viện Pháp quốc (Institut de France). Đây là một Viện Hàn lâm về khoa học nhân văn, chuyên nghiên cứu các lĩnh vực khảo cổ học, lịch sử và ngữ văn thời cổ đại, trung đại cho đến thời cổ điển trên không gian lịch sử rộng lớn từ Tây Âu đến Viễn Đông.
Bởi vậy việc GS. Phan Huy Lê được Viện này bầu là Viện sĩ là một vinh dự lớn không phải chỉ của riêng Giáo sư mà của cả giới khoa học nước nhà. Nhân dịp này, chúng tôi xin điểm lại một số nét chính trong cuộc đời khoa học của Giáo sư – một chuyên gia đầu ngành về lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê sinh ngày 23-2-1934 tại xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ của Thượng thư, nhà ngoại giao Phan Huy Ích, nhà bác học Phan Huy Chú, Thượng thư - nhà văn hóa Phan Huy Vịnh. Thân sinh ông là Lang trung Bộ Hình triều Nguyễn Phan Huy Tùng đỗ Hội nguyên và Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Sửu - năm 1913. Mẹ ông là người dòng họ Cao Xuân giàu truyền thống khoa bảng với các danh nhân: Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy.
Năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thành lập gồm 4 khoa: Toán - Lý, Hoá - Sinh, Văn và Sử. GS. Phan Huy Lê lúc ấy vừa tốt nghiệp cử nhân Sử - Địa đã được nhận ngay vào Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại của Khoa Lịch sử dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của nhà văn hóa bậc thầy, GS. Đào Duy Anh. Ngay từ khi còn làm trợ lý giảng dạy, ông đã được các Giáo sư Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh giao cho viết bài giảng và đảm nhiệm các công việc của những chuyên gia thực thụ. Có lẽ vì thế mà chỉ 2 năm sau, khi GS. Đào Duy Anh chuyển công tác về Viện Sử học, mới 24 tuổi đời, thầy giáo trẻ Phan Huy Lê đã vững vàng trong trọng trách của một Chủ nhiệm bộ môn đứng mũi chịu sào tổ chức và xây dựng một ngành học giữ vị trí then chốt trong hệ thống các môn học về khoa học xã hội Việt Nam.
Sự nghiệp khoa học của GS. Phan Huy Lê được chia ra thành 4 mảng lớn gần tương đương nhau và đều ở mức rất cao (từ 104 đến 120 công trình). Thật hiếm có một học giả có khối lượng các công trình nghiên cứu đồ sộ và đạt đến đỉnh cao trên nhiều lĩnh vực chuyên môn.
Ông là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam và nhận được nhiều giải thưởng do nhà nước trao tặng: GS. Phan Huy Lê được phong học hàm Giáo sư năm 1980, danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 1988, danh hiệu Nhà giáo nhân dân năm 1994; Giải thưởng Nhà nước năm 2000. Ông cũng là người Việt đầu tiên được Nhật Bản trao tặng Giải thưởng quốc tế văn hóa châu Á Fukuoka năm 1996. Năm 2002, ông được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Cành cọ Hàn lâm.
Từ năm 1988 cho đến nay, GS. Phan Huy Lê liên tục là Chủ tịch Hội Sử học Việt Nam. Ông còn giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt và là ủy viên của nhiều Hội đồng Quốc gia như Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa, Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học và Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội, Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, Hội đồng Quốc gia Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước, Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia... Ở cương vị nào, ông cũng đều có những đóng góp xuất sắc.
Trong những năm qua Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã có tiếng nói quan trọng góp phần xác định giá trị lịch sử - văn hóa để tiến hành lập hồ sơ công nhận Hoàng thành Thăng Long là Di tích đặc biệt cấp quốc gia và phát triển thành hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Người "đứng mũi chịu sào” đưa ra những kiến nghị đầy tinh thần trách nhiệm, khoa học và đau đáu nỗi lòng với những di sản văn hóa Thăng Long – Hà Nội là GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN.
Cùng với hoạt động nghiên cứu, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Nhà Sử học Phan Huy Lê còn dành tâm huyết nghề nghiệp của mình truyền lại cho các thế hệ sinh viên. Ông một trong "Tứ trụ” của nền sử học hiện đại Việt Nam như cách vinh danh của nhiều thế hệ học trò: "Lâm – Lê – Tấn – Vượng” (các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng). Với nhiều thế hệ sinh viên Đại học Tổng hợp (cũ), nhắc đến thầy Lê là nhớ đến một giọng nói trầm ấm, biểu cảm, khúc triết và uyên bác. Những ai đã từng được nghe ông giảng thì không chỉ "tâm phục khẩu phục''về kiến thức, tri thức sâu rộng mà còn thấy ở ông một phong cách, một thế ứng xử đầy minh triết, một nhân cách khoa học toàn vẹn.
Quê hương của GS Phan Huy Lê là vùng Núi Hồng Sông Lam nhưng Hà Nội coi ông là một trong những công dân tiêu biểu nhất của Thủ đô.