VietGAP là xu hướng tất yếu
Từ lâu, HLV đã nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc áp dụng quy trình VietGAP trong nông nghiệp, vì thế mới có chủ trương hướng dẫn hội viên, nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn này. Theo đó, chúng tôi đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, hướng dẫn bà con và hội viên để họ hiểu thêm về quy trình. Trên thực tế, sản phẩm của quá trình làm VAC chủ yếu là rau, củ, quả, vì thế việc hội viên thực hành VietGAP là vấn đề rất quan trọng và thiết yếu. Chúng tôi xác định, thực hành VietGAP là nhiệm vụ bắt buộc phải làm chứ không phải mục tiêu phấn đấu được đến đâu thì làm đến đó.
Thưa ông, đến thời điểm này, chúng ta đã triển khai những mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP nào?
Ở miền núi phía Bắc,chúng tôi đã kết hợp cùng Tổ chức Action Aid Việt Nam triển khai mô hình VAC theo quy trình VietGAP để đảm bảo an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp cộng đồng tại bản Hùn, xã Chiềng Cọ (thành phố Sơn La – Sơn La) từ năm 2004 - 2008. Tham gia mô hình có 30 hộ dân tộc Thái. Khi triển khai, chúng tôi gặp gỡ nông dân và chính quyền địa phương để đánh giá năng lực, chọn các bước triển khai phù hợp rồi đi đến quyết định dựa trên sự thống nhất cao của bà con là tiến hành nuôi dê, trồng đào chín sớm và xây dựng vườn ươm cây lâm nghiệp.
Từ 30 hộ dân, chúng tôi chia thành 5 tổ để bà con thay nhau chăm sóc vườn cây. Riêng đàn dê và vườn đào của gia đình nào thì gia đình đó tự chăm sóc. Sau 4 năm triển khai, chúng tôi đã thu được kết quả ngoài mong đợi: tất cả các hộ tham gia dự án đều thoát nghèo bền vững. Với dê, bà con được dự án hỗ trợ miễn phí, tận dụng đồng cỏ ở địa phương để chăn thả; cây đào sau 3 năm trồng bắt đầu cho thu hoạch lứa đầu tiên. Riêng với rừng, chúng tôi mừng nhất là bà con đã nâng cao ý thức bảo vệ rừng, có nguồn củi đun nấu và thu hoạch thêm một số sản phẩm phụ từ rừng. Sau khi dự án kết thúc, nhiều bà con ở xã Chiềng Cọ đã học theo mô hình.
Trong quá trình sản xuất, bà con được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn quy trình rất cụ thể, vừa tiết kiệm chi phí sản xuất, vừa tăng thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích.
Ở Duyên hải miền Trung, chúng tôi triển khai dự án tại xã Tam Thanh (TP. Tam Kỳ - Quảng Nam) với hàng chục hộ dân tham gia, tiêu biểu là mô hình của hộ ông Châu Văn Năm. Trước đó, với mảnh vườn đất pha cát, gia đình ông Năm chỉ trồng điều, mỗi năm thu hoạch một vụ. Chúng tôi đã cùng ông Năm triển khai mô hình trồng chanh trên đất cát, nuôi gà, đào ao lấy nước tưới kết hợp nuôi cá. Xuất phát điểm là một trong những hộ nghèo nhất thôn, sau 2 năm triển khai dự án, mỗi năm ông Năm thu được 10 – 15 triệu đồng từ vườn; 3 – 4 triệu đồng từ nuôi gà, cá.
Tại thị trấn Chũ (Lục Ngạn – Bắc Giang),dự án được triển khai trên cây vải với 20 hộ tham gia, diện tích 47ha. Trước đây, do chưa nắm được kỹ thuật bảo quản nên bà con phải chấp nhận tình trạng quả vải bị thâm, nứt nẻ, bị mất giá. Chúng tôi đã chuyển giao kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch, giúp nông dân xây dựng thương hiệu vải thiều Lục Ngạn, nhờ đó, lượng vải xuất khẩu của các hộ tham gia mô hình tăng lên trông thấy, giá bán tăng thêm 1.000 – 2.000 đồng/kg so với các hộ sản xuất theo cách thông thường.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long,chúng tôi triển khai dự án chuyển giao kỹ thuật đốn tỉa xoài và cách sử dụng túi giấy bọc quả để hạn chế bệnh thán thư, ruồi đục tại xã Tịnh Thới và Mỹ Hội (Cao Lãnh – Đồng Tháp) với 8 hộ tham gia trên diện tích 16ha. Mô hình đã thu được kết quả rất thuyết phục, lượng thuốc bảo vệ thực vật giảm 7-8 lần so với trước, quả xoài có hình thức đẹp, chất lượng tốt, giá bán cao hơn hẳn.
Với những kết quả rất đáng mừng đó, thời gian tới chúng ta có giải pháp gì để tăng diện tích, tăng số hộ tham gia vào các dự án sản xuất theo quy trình VietGAP, thưa ông?
Xin khẳng định là kết quả này có được nhờ một phần rất lớn vào sự đồng lòng nhất trí và quyết tâm của các hộ nông dân, hội viên HLV các cấp. Cũng vì thế, một trong những giải pháp được ưu tiên hàng đầu trong thời gian tới chính là tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân và hội viên. Song song đó, chúng tôi sẽ tăng cường phối kết hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT... để xây dựng và triển khai thêm nhiều dự án thiết thực, phù hợp với từng vùng miền, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng trong cả nước.
Nói gì thì nói, không có gì thuyết phục nông dân bằng chính những mô hình thực tế. Vì lẽ đó, chúng tôi càng quyết tâm gây dựng các mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP, theo sát bà con từ lúc khởi đầu đến khi thu được những mùa hoa trái đầu tiên. Chúng tôi tin những dự án được triển khai trong thời gian tới sẽ thu được nhiều kết quả khả quan để VietGAP thực sự trở thành xu hướng tất yếu.
Xin cảm ơn ông!








