Việt Nam & Thái Lan dưới thời nhà Nguyễn
Đến 5 năm sau, Xiêm La lại sai sứ sang xin vua Nguyễn miễn thuế cho tàu thuyền buôn của nước này khi giao thương với ta. Nhưng yêu cầu của họ không được chấp thuận trọn ven. Nguyễn vương chỉ cho cấp một tấm long bài miễn thuế mà thôi.
Về sau nước Xiêm La bị Miến Điện xâm lấn (1767). Giặc bắt vua Xiêm, hoàng tử trưởng, cướp lấy vàng bạc, châu báu, đốt hết nhà cửa rồi lùa cả con trai con gái Xiêm về Miến Điện. Sách Đại Nam liệt truyện tiền biênnói một người con của vua Xiêm là Chiêu Thuý chạy sang Hà Tiên lánh nạn (cùng một hoàng tử khác tên Chiêu Xi Xoang, nhưng sau đó Xi Xoang lại chạy sang Chân Lạp). Chiêu Thuý được Mạc Thiên Tứ đối xử tử tế.
Một nước Xiêm La giàu có, thanh bình, lại lâm vào tình trạng nghèo đói và không vua sau cuộc tàn phá của người Miến Điện.
Một người Trung Hoa lai tên Trịnh Quốc Anh (còn có tên Trịnh Tân, Trịnh Nhã Tân hay Phi Nhã Tân: Phra Tak Sin, gọi tắt là Tak Sin), một tay giàu lớn ở Nam nước Xiêm, dùng tiền bạc và bạo lực để chinh phục các mục trưởng khác trong nước, thanh toán các thế lực chống đối, lên làm vua Xiêm La vào cuối năm 1767: Sau thời gian củng cố nội bộ, năm 1771, Trịnh Quốc Anh đưa quân đánh Hà Tiên, lấy cớ bắt cho được Chiêu Thuý để trừ hậu hoạn. Tổng trấn Mạc Thiên Tứ phải bỏ thành chạy về Châu Đốc. Trịnh Quốc Anh sắp xếp tướng quân ở lại giữ Hà Tiên, rồi tự mình cầm binh đánh chiếm Chân Lạp. Vua nước này là Nặc Tôn chạy trốn. Trịnh Quốc Anh tìm được Nặc Tôn đưa về làm vua và bắt triều cống.
Do Chân Lạp kêu cứu, tháng 6 năm 1772, vua Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777) sai tướng Nguyễn Cửu Đàm đem quân đến Nam Vang. Trịnh Quốc Anh bỏ thành chạy về Hà Tiên, bắt Chiêu Thuý và con Mạc Thiên Tứ đem về Xiêm. Một năm sau Mạc Thiên Tứ cho người sang Xiêm xin giảng hoà. Thấy thế lực quân Nguyễn quá mạnh, Trịnh Quốc Anh nói lời hăm he sứ giả rồi rút quân khỏi Hà Tiên và cho con trai con gái họ Mạc trở về; còn Chiêu Thuý thì giết đi.
Trịnh Quốc Anh còn tiếp tục xâm lăng Chân Lạp. Quân Nguyễn phải nhiều lần kéo sang trợ giúp mỗi khi quốc vương Chân Lạp kêu cứu.
Năm 1776, Nguyễn vương Phúc Thuần bị tướng Hoàng Ngũ Phúc của Trịnh tấn công. Vùng Bình Định, Quảng Nam , Quảng Ngãi, Phú Yên... đã bị anh em Tây Sơn chiếm cứ. Ông phải bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định. Một năm sau Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn bắt ở Long Xuyên (Cà Mau) rồi đem về Gia Định giết chết. Mạc Thiên Tứ, các con và hoàng tử Xuân chạy sang Xiêm và bị vua Xiêm kìm giữ. Bị thất bại liên tục, tháng 6 năm 1780, Nguyễn Ánh sai hai vị quan (tên Tham và Tính) đi sứ sang Xiêm để giao hảo. Nhân vụ tàu buôn bị cướp ở Đông Hải, Trịnh Quốc Anh nghi người Việt có âm mưu cướp nước họ, Trịnh Quốc Anh giết Mac Tử Dung, hoàng tử Xuân và gia quyến Mạc Thiên Tứ cùng hai sứ giả. Mạc Thiên Tứ uống thuốc độc tự tử.Còn đám lưu dân Việt bị trục xuất khỏi kinh thành.
Năm 1781 một tướng lãnh Xiêm La là Chất Tri (Phaya Chakri) được lệnh Trịnh Quốc Anh dẫn quân chinh phục Chân Lạp. Đang trên đường tiến chiếm miền Tây Bắc Chân Lạp, Chất Tri nhận được tin Trịnh Quốc Anh cho bắt vợ con y bỏ ngục. Vừa lúc quân Việt Nam cứu viện Chân Lạp cũng tới nơi. Chất Tri gấp rút trở lại kinh thành và dặn em là Sô Si tìm cách giao hoà với tướng Việt là Nguyễn Hữu Thuỵ (và phó tướng Hồ Văn Lâm). Hai bên gặp nhau. Bên Xiêm bẻ tên, trao gươm; bên Việt trao cờ, hẹn ước không đánh nhau và giúp đỡ lãn nhau khi cần. Chất Tri xử tử Trịnh Quốc Anh (ngày 2-4-1782) lên làm vua Xiêm La lấy hiệu là Rama I, phong em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là Ma Lạc làm đệ tam vương. Đệ nhị vương tích cực tìm kiếm, giúp đỡ những người Việt bị Trịnh Quốc Anh bạc đãi trước đó: cho họ về sống gần kinh thành, cấp tiền gạo…
Lúc này Nguyễn Ánh về vùng Trấn Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Gò Công… được nhiều người tài theo giúp, nhân dân góp tiền của củng cố quân đội. Thế lực Nguyễn khá mạnh. Dù vậy, sau nhiều lần giành lại đất Gia Định, Nguyễn Ánh đều thất bại. Vào năm 1782, Tây Sơn tấn công lần thứ tư, Nguyễn Ánh thua to, phải chạy ra đảo Thổ Châu, Tả quân Châu Văn Tiếp chạy đường bộ sang Ai Lao rồi dẫn quân qua Chân Lạp để tới Xiêm La. Bị tướng Trương Văn Đa của Tây Sơn truy gắt, cùng đường Nguyễn Ánh phải bỏ mẹ, vợ con ở lại Côn Lôn, chạy sang Xiêm để mưu đồ.
Giữ lời giao kết với tướng Nguyễn Hữu Thuỵ hai năm trước, đệ nhị vương Xiêm gấp rút chuẩn bị lực lượng giúp Nguyễn Ánh phục quốc. Tả quân Châu Văn Tiếp đưa binh thuyền đi trước, tham tướng Mạc Tứ Sinh kéo quân đi hậu tập nhắm về hướng Hà Tiên. Lúc bấy giờ có tin Miến Điện tấn công Xiêm La nên Sô Si giao cho hai cháu nắm quyền chỉ huy quân viễn chinh. Chiêu Tăng, Chiêu Sương kéo 5 vạn quân và 200 chiến thuyền sang đánh Tây Sơn. Sau vài trận lẻ tẻ thăm dò, Nguyễn Huệ lừa địch vào giữa Giạch Gầm-Xoài Mút (Mỹ Tho), đánh một trận lịch sử vào ngày 20-1-1785. Giặc chết tan tác, số sống sót chạy theo đường Chân Lạp về nước.
Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy đuổi, chạy qua Xiêm lần thứ hai. Xiêm quốc đang lo chống trả giặc Miến Điện. Nhận được nội tình Tây Sơn lục đục, Nguyễn Ánh lặng lẽ rời Xiêm quay về khôi phục Gia Định. Từ đó hai bên Nguyễn Ánh - Xiêm La thường có thông sứ qua lại giao hảo nhau.
Đến năm 1809, vua Xiêm Rama I chết, vua Rama II ra mặt tranh giành thế lực ở Chân Lạp. Nguyễn vương vẫn cố duy trì tình giao ước êm đẹp với Xiêm La dù đã hiểu rõ hậu ý của người Xiêm. Mất quyền lợi ở Chân Lạp, Xiêm La tìm cách gây rối ở Ai Lao, lại đánh phá vùng biên giới Nghệ An, Thanh Hoá, rồi lại tiếp tay với Lê Văn Khôi ở Gia Định. Thời Minh Mạng (1820-1840), Việt Nam phải luôn động binh… Năm 1835, quan Việt Nam phải xây thành Trấn Tây (gần Nam Vang) để bảo vệ vương quốc Chân Lạp trước áp lực của Xiêm.
Dưới đời vua Thiệu Trị (1841-1847), các tướng lãnh đề nghị rút quyền bảo hộ ở Chân Lạp. Cuối năm 1841, quân Việt Nam lui về đóng ở Châu Đốc đạo, lập thêm Tân Châu đạo, Đông Khẩu đạo (vùng Sa Đéc)… để tăng cường giữ vững biên cương Tây Nam. Thoả ước năm 1846 giữa triều đình Huế - Chân Lạp - Xiêm La, công nhận quốc vương Ang Dương trị vì Chân Lạp, phân định rõ những phân đất phía nam nước ta… Tình hình Việt - Xiêm tạm yên, cả với Chân Lạp cũng bớt căng thẳng.
Những năm đầu Tự Đức, việc bang giao giữa Việt Namvà Thái Lan có phần thưa thớt cho đến khi người Pháp xâm chiếm miền Nam nước ta.
Từ năm 1939, nước Xiêm La ( Siam) chính thức đổi thành Thailand (Thái Lan).
________________
(1) Xưng vương năm 1744.
Tài liệu tham khảo:
- Việt Nam sử lượccủa Trần Trọng Kim.
- Việt sử xứ Đàng trongcủa Pahn Khoang VHXB 2000.
- Mạc Thị Gia Phảcủa Vũ Thế Dinh (bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần, nhà xuất bản GD.2005).
- Bài viết “ Vấn đề dân tộc ở các nước ASEAN” của Gs Nguyễn Quốc Lộc ( Đông Nam Á ngày naysố 5.1997).