Vị thuốc từ anh đào
Anh đào cũng gọi là hàm đào, kinh đào, chu anh, chu quả, anh chu, gia anh đào; là quả cây anh đào, thuộc họ hoa hồng; tính ôn, vị ngọt. Thành phần chủ yếu của anh đào chứa sắt tương đối cao, đứng đầu trong hoa quả, 100 g anh đào chứa 5,9 ml, còn có các loại đường, calci, phốt-pho, ka-li, vitamin C, A, v.v. Ðầu mùa hè là mùa thu hoạch quả, có quả tươi ăn, còn thường được chế biến đóng hộp, nước ép.
Tác dụng: ích khí, tiêu phong thấp. Chủ yếu dùng cho tì hư, đau nhức lưng do phong thấp, cơ thể tổn thương do bị lạnh, sốt, bị bỏng, v.v.
Cách dùng: Dùng bên trong, ăn sống, nấu canh hoặc ngâm rượu. Dùng ngoài da: ngâm rượu dùng để xoa hoặc giã để đắp.
Kiêng kị: Không được ăn quá nhiều, ăn nhiều gây nôn, dẫn đến hư nhiệt phát sinh do nhiều đờm.
Chữa trị:
1. Bổ tụy và dạ dày: anh đào 250g (bỏ hạt), ý dĩ 100g, nấu cháo để ăn, liên tục trong ba ngày.
2. Khô miệng khát nước: anh đào tươi ăn sống mỗi lần từ 100- 200g.
3. Ðau mỏi lưng do phong thấp: anh đào 300g bỏ hạt, ngâm với 599ml rượu trắng, uống liên tục trong nửa tháng, mỗi ngày từ 30 - 50ml.
4. Họng sưng đau: nước ép anh đào tươi, mỗi lần uống 25ml, ngày uống hai lần.
5. Mụn nhọt lạnh: anh đào (gần chín), đặt vào một hũ hoặc bình sứa, ngâm bằng rượu cồn 75% hoặc rượu trắng, đậy kín đặt ở chỗ tối và mát, mùa đông lấy ra dùng.
6. Sốt, bị bỏng: nước ép anh đào tươi, nhúng bông vào, bôi đi bôi lại nhiều lần vào vết bỏng.
7. Sởi không thông thoáng: a/ Anh đào 500- 1.500 gam, đặt vào hộp đậy kín, chôn xuống đất, tháng sau lấy lên, anh đào đã phân hủy thành nước, bỏ hạt dùng. Khi cần uống 1 chén; b/ Hạt anh đào 30 cái ( giã nát) một củ hành cả rễ/ Sắc lấy nước, vớt bã, thêm đường trắng lượng vừa đủ uống, mỗi ngày hai lần.
8. Sa nang: hạt anh đào 60 gam (rang với giấm), nghiền nhỏ, mỗi lần uống 15g, với nước đun sôi.
Nguồn: nhandan.com.vn