Vệ sinh đô thị xưa
Vệ sinh ở các thành thị cổ đại
Vấn đề ô nhiễm môi trường ở thành thị luôn xuất hiện theo chu kỳ. Trong một thời gian dài vấn đề ô nhiễm chỉ hạn chế trong việc làm bẩn nguồn nước trên mặt hoặc mạch nước ngầm vì những vi khuẩn gây bệnh, hoặc do những chất thải sinh hoạt làm bẩn hệ thống dẫn nước.Từ thời cổ đại, người La Mã, và có thể trước đó, người Hy Lạp cũng đã giải quyết bằng nhiều biện pháp vệ sinh. Ngày nay chúng ta còn thấy vết tích của những ống dẫn nước bằng đất nung tại thành phố Pompéi bị vùi lấp vì núi lửa, có lẽ đấy là thuỷ tổ của hệ thống cống thoát nước đô thị ngày nay. Nhưng không phải ở thành thị cổ đại nào cũng vậy, dù rằng cư dân đô thị vẫn biết rằng mùi xú uế bốc lên từ sông ngòi hay từ trong nhà đã gây nên nhiều điều khó chịu, và đấy là nguồn gây dịch bệnh. Trong cuốn “ Bàn về cuộc chiến tranh ở xứ Gaules”, vị tổng tài La Mã Jules César đã mô tả khi đi qua thành phố Lugdunum, tức Lyon của nước Pháp ngày nay, như sau: “Đâu đâu cũng thấy rác rưởi các loại, chất đống trên đường đi khiến các đoàn quân phải đổi hướng. Hoặc là đường không đi được. Người ta đã báo cáo về các trường hợp bệnh tật trong quân đội chúng ta do phải đóng quân lâu ở vùng này. Tôi đã ra lệnh bằng mọi cách, phải dọn hết rác rưởi trên đường đi và phải dọn dẹp quanh nơi ở bị ô nhiễm. Tôi cũng ra lệnh phải nạo vét đầm lầy khi mùi hôi thối ở đây bốc lên không chịu được, và trừng phạt những kẻ góp phần vào việc làm bẩn nơi ở”. Trong khi đó thì ở Paris thời Trung đại, tài liệu biên niên đã mô tả tình hình vệ sinh một cách khủng khiếp. Ban đêm người dân đô thị đi tiểu vào bô, đến sáng không có cách nào khác là… đổ qua cửa sổ! Những người ở gần cầu thỉ đổ luôn xuống sông Seine. Thời đó cái ô đối với người dân Paris không phải chỉ để che mưa nắng và làm dáng, mà còn để đề phòng những chậu nước bất chợt đổ từ trên gác xuống đường phố. Đấy là chưa kể phế thải của những lò mổ, những xưởng thuộc da, nhuộm vải… bốc lên mùi hôi thối khủng khiếp. Vậy mà thời đó sông Seinevẫn cung cấp nước uống cho dân thành phố và cả tắm giặt ở đó. Những cố gắng vệ sinh ở Paris Mãi đến triều vua Philippe II (1180-1223) mới bắt đầu có những cố gắng về gìn giữ vệ sinh ở Paris . Khi những con đường lát đá đầu tiên xuất hiện ở thành thị thì cống thoát nước cũng ra đời. Mặc dầu vậy Paris và các thành thị khác nước Pháp vẫn giữ dáng vẻ những bãi rác lớn. Đường phố được quét dọn không thường xuyên, chỉ lúc nào vua đi qua và có bệnh dịch lớn thì mới tiến hành. Trong trường hợp đầu, dân chúng phải tự quét dọn đường xá, vì không có một tổ chức công chính nào đảm trách cả. Trong trường hợp thứ hai khi có dịch bệnh, mỗi hộ dân phải vứt rác vào một cái sọt để trước nhà mình, sau đó sẽ có xe đẩy đi thu gom. Nhưng khi vua đã đi qua và khi dịch bệnh chấm dứt thì công việc vệ sinh cũng kết thúc luôn. Vì vậy cho đến tận đầu thế kỷ XVIII, khi Paris đã nổi tiếng là trung tâm văn hoá, không khí thành phố vẫn còn hôi hám khó chịu. Sự ô nhiễm đó phải chăng gây nên những thảm hoạ lớn như bệnh dịch hạch đen khiến 80.000 người chết ở Paris, 40.000 người chết ở Lyon, 30.000 người ở Avignon, 26.000 người ở Marseille. Các nhà y học thời đó đã đưa ra lời khuyên là nên rời thành phố để tránh xa không khí độc địa của đô thị, đồng thời “phải xa rời phụ nữ, tránh những thú vui xác thịt” coi đó cũng là nguyên nhân gây bệnh tật. Nguồn nước là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm chính. Mãi đến thế kỷ XII Paris mới có đường dẫn nước uống từ những ngọn đồi trong thành phố để chuyền vào vòi máy nước. Phần lớn cư dân thành phố đều dùng nước vòi dẫn công cộng (năm 1400 có 6 vòi, năm 1500 có 17 vòi), nhưng nước thường có lẫn bùn và vôi. Một số người vẫn phải dùng nước sông Seine. Đến cuối thế kỷ XVI nhà vua mới cho đặt một cái bơm tay trên Cầu Mới để bơm nước sông lên rồi cho lọc trước khi sử dụng. Sang thế kỷ XIX, ô nhiễm đã làm phát sinh bệnh dịch tả năm 1832, khiến hàng nghìn người chết, và dân chúng Paris lại phải di tản về thôn quê. Để chống ô nhiễm người ta còn đặt ra những nguyên tắc về xây dựng đô thị. Thế kỷ 1 tr. CN, kỹ sư người La Mã Vitruve đã nói đến những nguyên tắc mở đường và yêu cầu phải trổ cửa nhà theo hướng gió và hướng đi của mặt trời. Thế kỷ XVIII để chống lại phân rác thối rữa người ta đã yêu cầu phảt lát đá mặt đường, đào rãnh thoát nước, thông gió và dẹp những khu nhà chen chúc. Năm 1769 để làm thông thoáng không khí kinh thành Paris , Pierre Patte đã đưa ra dự án lập những quảng trường và mở đường rộng rãi. Cuộc đấu tranh chống những ngôi nhà bẩn thỉu tăm tối còn tiếp tục cho đến thế kỷ XIX. Sau khi có những cuộc nổi dậy của công nhân Paris giữa thế kỷ XIX, kỹ sự Haussmann đã đưa ra kế hoạch thông gió cho thành phố bằng cách mở hơn 95 cây số đường phố mới ở trung tâm thành phố với vỉa hè rộng có trồng cây, đó cũng là một biện pháp để đàn áp các cuộc bạo loạn của nhân dân đô thị, vì quân đội có thể dễ dàng sử dụng pháo bắn dọc theo đường phố. Các khu rừng cây xung quanh Paris cũng được chăm sóc tạo nên những lá phổi cho thành phố như rừng Boulogne , rừng Vincenne. Thùng đựng rác xuất hiện ở Paris từ năm 1884, có tên là “poubelle”, được dùng cho đến ngày nay để chỉ mọi thứ đồ dùng đựng rác. Hồi đó ông thị trưởng quận Seinelà Eugène Poubelle đã quy định mỗi hộ phải sắm một cái thùng có nắp đậy theo kích cỡ với từng loại rác, để đựng rác sinh hoạt. Người ta đã lấy tên ông để gọi các thùng rác đó. Thành thị phương Đông Đô thị Trung Hoa đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng có ít tài liệu nói về các thành thị đó. Chỉ từ đời Tống mới có nhiều ghi chép về cuộc sống đô thị, đặc biệt là các bút ký của những du khách phương Tây, trong đó nổi tiếng nhất là của Marco Polo, một người Ý đã chứng kiến sự sụp đổ của nhà Tống trước sự xâm lăng của Mông Cổ, và đã ở lại làm việc dưới triều nhà Nguyên trong nhiều năm. Theo mô tả của Marco Polo về thành phố Hàng Châu, kinh đô của nhà Nam Tống bên bờ Trường Giang giữa thế kỷ XIII thì: “Trong thành phố, đại lộ chính chạy suốt từ đầu này đến đầu kia thành luỹ, được lát đá và gạch trên một khoảng rộng 10 bộ (khoảng 15m) ở hai bên, nhưng ở giữa thì rải đá dăm và có cống ngầm để dẫn nước mưa, khiến cho đường lúc nào cũng khô ráo” (1). Hầu như mọi đường phố của thành thị miền Nam Trung Hoa đều được lát đá hay gạch, còn đường phố ở các thành thị phía bắc theo nhận xét của Marco Polo hồi đó thì vẫn còn trải đất nện. Phố xá ở Hàng Châu được giữ gìn sạch sẽ, nhất là trong mùa viêm nhiệt, tuy nhiên vẫn không ngăn được dịch bệnh hoành hành. Đường xá được người của Phủ doãn thường xuyên quét dọn, rác được chất xuống thuyền, các thuyền đó sau khi tập kết ở đoạn kênh phía bắc thành phố, thì chèo về đồng quê ngoài thành phố, rác được đổ xuống các bãi hoang. Mỗi năm một lần, quan Phủ doãn cho quét dọn toàn bộ đường phố và tổng nạo vét các kênh chảy qua thành. Từ xưa người Trung Hoa cũng như người Việt Nam đã có thói quen sử dụng phân người bón ruộng, vì vậy dù ở thành thị, phân người vẫn được thu gom để đưa về nông thôn. Do vậy mà không có hiện tượng vứt phân ra đường phố. Trong các nhà khá giả người ta xây hố vệ sinh lộ thiên để có thể lấy phân dễ dàng. Ngược lại người dân thường sống chen chúc trong các nhà gác giữa đường phố chật hẹp, thì phải đi vệ sinh vào cái gọi là “máng cỏ ngựa”, để hàng ngày có người đổ phân đến lấy đi. Những người phu đổ thùng được tổ chức thành một phường hội. Mỗi phường chịu trách nhiệm thu phân ở một khu vực khác nhau, không được dẫm vào lãnh địa của phường khác, những vụ vi phạm khu vực có thể dẫn đến việc kiện cáo lên cửa quan. Tình hình vệ sinh ở Thăng Long, tức Hà Nội xưa như thế nào, chúng ta không thấy ghi chép trong sử sách. Nhưng qua những nhân chứng cuối thế kỷ XIX, chúng ta cũng có thể hình dung phần nào cuộc sống của người dân đô thị nước ta trước và ngay sau khi người Pháp chiếm đóng. Theo lời kể của một phụ nữ đã sống trong những năm 80 của thế kỷ XIX, thì: “Trừ các đường ở phố Khach (tức phố Mã Mây ngày nay - TG), ở giữa có một phần lát gạch, còn các đường khác đều bằng đất nện, đầy bùn và rác do cư dân hai bên đường và khách qua lại vứt ra mà không ai nghĩ đến việc quét dọn cả! Khi trời mưa, những con đường trở nên lầy lội, ở một số con đường, người ta phải xếp một hàng gạch nối nhau để người đi đường có chỗ đặt chân. Không có cống rãnh thoát nước, nước đọng lại khắp nơi, mùa viêm nhiệt mùi hôi thối bốc lên kinh khủng. Không cần nói cũng biết rằng những con đường đó là nguồn ổ dịch bệnh, các bệnh đậu mùa, thổ tả và sốt rét tàn hại hàng năm…” (2). Một người Pháp, bác sĩ Hocquard cũng có những quan sát tương tự: “Trong những khu phố giàu có, như phố Cờ Đen (tức phố Mã Mây ngày nay) của người Hoa (…) đường phố giữ gìn tử tế và có những ngôi nhà đẹp hai bên. Đường gồ sống trâu, lát đá tảng, hai bên có hai rãnh hẹp và sâu để dẫn nước mưa và nước thải xuống cống” (3). Qua đó ta có thể suy luận rằng người Trung Hoa đã có một quy tắc xây dựng đô thị từ lâu đời, nên phố xá của họ đỡ bị ô nhiễm hơn, còn thành thị của người Việt vốn chỉ là một ngôi làng lớn (Kẻ Chợ) nên không có một quy hoạch nào hết. Hãy xem thêm lời kể của nhân chứng nói trên: “Nhà cửa được xây dựng tuỳ theo ý thức của chủ nhà. Nó không theo một khuôn mẫu nào, không có một trật tự nào, nhiều nhà nhô ra đường. Mỗi nhà có một mái hiên bằng tre đan nhô ra, khiến lối đi của khách qua đường càng hẹp lại. Nếu một đám chảy xảy ra ở bên ngoài nhà thì chỉ có cách là chạy theo lối sau hay nhảy xuống ao hồ. Tôi có thể chỉ cho thấy ở sân trong một số ngôi nhà cổ những bể chứa nước phòng khi hoả hoạn” (4). Còn một điều chúng ta chưa thể biết được là thời đó rác rưởi sinh hoạt ngoài việc ném ra đường còn có nơi chứa nào khác không, và việc thu don rác trong thành phố do ai đảm nhiệm. Không thấy có một tài liệu nào ghi cả. Còn quang cảnh quanh Hồ Gươm thơ mộng ngày nay theo lời kể của một người Pháp cuối thế kỷ XIX thì: “Các túp lều của dân bản xứ san sát nhau bên bờ hồ đến nỗi để xuống được hồ, sau khi rời những con đường, mặc dù khá bẩn nhưng vẫn đi được, người ta phải len lỏi qua những ngõ chật hẹp men theo hàng ngàn khúc quẹo quanh những ngôi nhà lá lụp xụp phía trong chen chúc đám dân cư khốn khổ, phải nhảy qua những vũng nước hôi thối và những đống rác” (5). Thành thị với công nghiệp hoá ![]()
Thành thị Việt Nam dưới thời thuộc địa không được phát triển cho lắm, dân số tập trung chưa cao. Do vậy việc quản lý vệ sinh đô thị của người Pháp cũng được tiến hành một cách giản đơn. Việc đầu tiên người Pháp phải làm là cung cấp nước sạch cho thành phố, các thành thị đều được xây dựng nhà máy nước. Nhưng nếu như nước được dẫn theo đường ống đến tận từng nhà trong “khu phố Tây” hay nhà riêng của người Pháp và một số tầng lớp thượng lưu Việt Nam, thì ở khu phố của người Việt Nam máy chỉ dẫn đến các vòi nước công cộng đặt ở gần các ngã tư đường phố, từng nhà phải có người ra gánh về để chứa trong chum trong bể. Một loại lao động chuyên đi gánh nước thuê xuất hiện gọi là những “thằng nhỏ”. Còn nhà vệ sinh thì hầu như ở các khu phố của người Việt chưa có hố xí tự hoại, mãi đến gần đây cảnh đổ thùng vẫn còn tồn tại ở Hà Nội và nhiều thành phố khác. Nhưng đến ngày nay, mặc dầu cơ sở hạ tầng của nhiều thành phố lớn nước ta đã được cải thiện rất nhiều, nhưng do việc mở rộng thành phố thiếu quy hoạch, dân số tăng quá nhanh, nên các công trình vệ sinh đô thị trở nên quá tải, không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường. Đến cuối thế kỷ XX, sự phát triển của các kỹ thuật hiện đại đã giúp cho việc phát triển nhanh chóng của sản xuất công nghiệp. Nhưng cũng do đó mà đẻ ra một khối lượng lớn chất phế thải, vô vàn chất khoáng hay chất hữu cơ không tự phân huỷ được bằng vi sinh. Sự phát triển của giao thông, như ta đang chứng kiến tình hình trong vòng hai mươi năm trở lại đây, đã góp một phần nghiêm trọng vào việc ô nhiễm môi trường. Cũng không nên bỏ qua yếu tố nông nghiệp thâm canh sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu độc hại, và việc sử dụng những chất ô nhiễm trong sinh hoạt gia đình. Như vậy đặc điểm của văn minh công nghiệp là sự tăng trưởng đột biến của số lượng và cường độ ô nhiễm. Ngoài những hậu quả có hại cho sức khoẻ con người, nó còn phá hoại sự cân bằng của hệ sinh thái. Đáng chú ý là có những nước công nghiệp phát triển lại không chịu tham gia chương trình làm giảm ô nhiễm trên phạm vi toàn cầu, như nước Mỹ hiện nay đã từ chối không thực hiện việc làm giảm khí thải công nghiệp. Một lần nữa, con người đang phát minh ra những điều để tự huỷ hoại mình, nhưng với lương tri của những người có thiện chí trên thế giới, và với đầu óc sáng tạo không ngừng của mình, rồi đây con người vẫn có thể dập tắt được những đám cháy do chính mình gây nên. ______________ 1. Theo Jacques Gernet, Đời sống thường ngày ở Trung Quốc(1250-1276), Hachette, 1959. 2. Xem Xưa và Nay,số tháng 10-1999, tr. VIII. 3. Bác sĩ Hocquard, Một chiến dịch ở Bắc Kỳ, 1892. 4. Xem Xưa và Nay,nt. 5. Xem Xưa và Nay, số tháng 12-1999, tr. E. Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 5/2001 |

Vệ sinh ở các thành thị cổ đại 







