Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 21/03/2006 00:40 (GMT+7)

Vệ sinh đô thị xưa

Hoạ sĩ biếm hoạ Newton vẽ cảnh một người Anh kinh ngạc trước việc phóng uế tự nhiên của người dân Paris Vệ sinh ở các thành thị cổ đại

Hoạ sĩ biếm hoạ Newton vẽ cảnh một người Anh kinh ngạc trước việc phóng uế tự nhiên của người dân Paris

Vấn đề ô nhiễm môi trường ở thành thị luôn xuất hiện theo chu kỳ. Trong một thời gian dài vấn đề ô nhiễm chỉ hạn chế trong việc làm bẩn nguồn nước trên mặt hoặc mạch nước ngầm vì những vi khuẩn gây bệnh, hoặc do những chất thải sinh hoạt làm bẩn hệ thống dẫn nước.Từ thời cổ đại, người La Mã, và có thể trước đó, người Hy Lạp cũng đã giải quyết bằng nhiều biện pháp vệ sinh. Ngày nay chúng ta còn thấy vết tích của những ống dẫn nước bằng đất nung tại thành phố Pompéi bị vùi lấp vì núi lửa, có lẽ đấy là thuỷ tổ của hệ thống cống thoát nước đô thị ngày nay.

Nhưng không phải ở thành thị cổ đại nào cũng vậy, dù rằng cư dân đô thị vẫn biết rằng mùi xú uế bốc lên từ sông ngòi hay từ trong nhà đã gây nên nhiều điều khó chịu, và đấy là nguồn gây dịch bệnh. Trong cuốn “ Bàn về cuộc chiến tranh ở xứ Gaules”, vị tổng tài La Mã Jules César đã mô tả khi đi qua thành phố Lugdunum, tức Lyon của nước Pháp ngày nay, như sau: “Đâu đâu cũng thấy rác rưởi các loại, chất đống trên đường đi khiến các đoàn quân phải đổi hướng. Hoặc là đường không đi được. Người ta đã báo cáo về các trường hợp bệnh tật trong quân đội chúng ta do phải đóng quân lâu ở vùng này. Tôi đã ra lệnh bằng mọi cách, phải dọn hết rác rưởi trên đường đi và phải dọn dẹp quanh nơi ở bị ô nhiễm. Tôi cũng ra lệnh phải nạo vét đầm lầy khi mùi hôi thối ở đây bốc lên không chịu được, và trừng phạt những kẻ góp phần vào việc làm bẩn nơi ở”.

Trong khi đó thì ở Paris thời Trung đại, tài liệu biên niên đã mô tả tình hình vệ sinh một cách khủng khiếp. Ban đêm người dân đô thị đi tiểu vào bô, đến sáng không có cách nào khác là… đổ qua cửa sổ! Những người ở gần cầu thỉ đổ luôn xuống sông Seine. Thời đó cái ô đối với người dân Paris không phải chỉ để che mưa nắng và làm dáng, mà còn để đề phòng những chậu nước bất chợt đổ từ trên gác xuống đường phố. Đấy là chưa kể phế thải của những lò mổ, những xưởng thuộc da, nhuộm vải… bốc lên mùi hôi thối khủng khiếp. Vậy mà thời đó sông Seinevẫn cung cấp nước uống cho dân thành phố và cả tắm giặt ở đó.

Những cố gắng vệ sinh ở Paris

Mãi đến triều vua Philippe II (1180-1223) mới bắt đầu có những cố gắng về gìn giữ vệ sinh ở Paris . Khi những con đường lát đá đầu tiên xuất hiện ở thành thị thì cống thoát nước cũng ra đời. Mặc dầu vậy Paris và các thành thị khác nước Pháp vẫn giữ dáng vẻ những bãi rác lớn. Đường phố được quét dọn không thường xuyên, chỉ lúc nào vua đi qua và có bệnh dịch lớn thì mới tiến hành. Trong trường hợp đầu, dân chúng phải tự quét dọn đường xá, vì không có một tổ chức công chính nào đảm trách cả. Trong trường hợp thứ hai khi có dịch bệnh, mỗi hộ dân phải vứt rác vào một cái sọt để trước nhà mình, sau đó sẽ có xe đẩy đi thu gom. Nhưng khi vua đã đi qua và khi dịch bệnh chấm dứt thì công việc vệ sinh cũng kết thúc luôn. Vì vậy cho đến tận đầu thế kỷ XVIII, khi Paris đã nổi tiếng là trung tâm văn hoá, không khí thành phố vẫn còn hôi hám khó chịu.

Sự ô nhiễm đó phải chăng gây nên những thảm hoạ lớn như bệnh dịch hạch đen khiến 80.000 người chết ở Paris, 40.000 người chết ở Lyon, 30.000 người ở Avignon, 26.000 người ở Marseille. Các nhà y học thời đó đã đưa ra lời khuyên là nên rời thành phố để tránh xa không khí độc địa của đô thị, đồng thời “phải xa rời phụ nữ, tránh những thú vui xác thịt” coi đó cũng là nguyên nhân gây bệnh tật.

Nguồn nước là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm chính. Mãi đến thế kỷ XII Paris mới có đường dẫn nước uống từ những ngọn đồi trong thành phố để chuyền vào vòi máy nước. Phần lớn cư dân thành phố đều dùng nước vòi dẫn công cộng (năm 1400 có 6 vòi, năm 1500 có 17 vòi), nhưng nước thường có lẫn bùn và vôi. Một số người vẫn phải dùng nước sông Seine. Đến cuối thế kỷ XVI nhà vua mới cho đặt một cái bơm tay trên Cầu Mới để bơm nước sông lên rồi cho lọc trước khi sử dụng. Sang thế kỷ XIX, ô nhiễm đã làm phát sinh bệnh dịch tả năm 1832, khiến hàng nghìn người chết, và dân chúng Paris lại phải di tản về thôn quê.

Để chống ô nhiễm người ta còn đặt ra những nguyên tắc về xây dựng đô thị. Thế kỷ 1 tr. CN, kỹ sư người La Mã Vitruve đã nói đến những nguyên tắc mở đường và yêu cầu phải trổ cửa nhà theo hướng gió và hướng đi của mặt trời. Thế kỷ XVIII để chống lại phân rác thối rữa người ta đã yêu cầu phảt lát đá mặt đường, đào rãnh thoát nước, thông gió và dẹp những khu nhà chen chúc. Năm 1769 để làm thông thoáng không khí kinh thành Paris , Pierre Patte đã đưa ra dự án lập những quảng trường và mở đường rộng rãi. Cuộc đấu tranh chống những ngôi nhà bẩn thỉu tăm tối còn tiếp tục cho đến thế kỷ XIX. Sau khi có những cuộc nổi dậy của công nhân Paris giữa thế kỷ XIX, kỹ sự Haussmann đã đưa ra kế hoạch thông gió cho thành phố bằng cách mở hơn 95 cây số đường phố mới ở trung tâm thành phố với vỉa hè rộng có trồng cây, đó cũng là một biện pháp để đàn áp các cuộc bạo loạn của nhân dân đô thị, vì quân đội có thể dễ dàng sử dụng pháo bắn dọc theo đường phố. Các khu rừng cây xung quanh Paris cũng được chăm sóc tạo nên những lá phổi cho thành phố như rừng Boulogne , rừng Vincenne.

Thùng đựng rác xuất hiện ở Paris từ năm 1884, có tên là “poubelle”, được dùng cho đến ngày nay để chỉ mọi thứ đồ dùng đựng rác. Hồi đó ông thị trưởng quận Seinelà Eugène Poubelle đã quy định mỗi hộ phải sắm một cái thùng có nắp đậy theo kích cỡ với từng loại rác, để đựng rác sinh hoạt. Người ta đã lấy tên ông để gọi các thùng rác đó.

Thành thị phương Đông

Đô thị Trung Hoa đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng có ít tài liệu nói về các thành thị đó. Chỉ từ đời Tống mới có nhiều ghi chép về cuộc sống đô thị, đặc biệt là các bút ký của những du khách phương Tây, trong đó nổi tiếng nhất là của Marco Polo, một người Ý đã chứng kiến sự sụp đổ của nhà Tống trước sự xâm lăng của Mông Cổ, và đã ở lại làm việc dưới triều nhà Nguyên trong nhiều năm. Theo mô tả của Marco Polo về thành phố Hàng Châu, kinh đô của nhà Nam Tống bên bờ Trường Giang giữa thế kỷ XIII thì: “Trong thành phố, đại lộ chính chạy suốt từ đầu này đến đầu kia thành luỹ, được lát đá và gạch trên một khoảng rộng 10 bộ (khoảng 15m) ở hai bên, nhưng ở giữa thì rải đá dăm và có cống ngầm để dẫn nước mưa, khiến cho đường lúc nào cũng khô ráo” (1). Hầu như mọi đường phố của thành thị miền Nam Trung Hoa đều được lát đá hay gạch, còn đường phố ở các thành thị phía bắc theo nhận xét của Marco Polo hồi đó thì vẫn còn trải đất nện.

Phố xá ở Hàng Châu được giữ gìn sạch sẽ, nhất là trong mùa viêm nhiệt, tuy nhiên vẫn không ngăn được dịch bệnh hoành hành. Đường xá được người của Phủ doãn thường xuyên quét dọn, rác được chất xuống thuyền, các thuyền đó sau khi tập kết ở đoạn kênh phía bắc thành phố, thì chèo về đồng quê ngoài thành phố, rác được đổ xuống các bãi hoang. Mỗi năm một lần, quan Phủ doãn cho quét dọn toàn bộ đường phố và tổng nạo vét các kênh chảy qua thành.

Từ xưa người Trung Hoa cũng như người Việt Nam đã có thói quen sử dụng phân người bón ruộng, vì vậy dù ở thành thị, phân người vẫn được thu gom để đưa về nông thôn. Do vậy mà không có hiện tượng vứt phân ra đường phố. Trong các nhà khá giả người ta xây hố vệ sinh lộ thiên để có thể lấy phân dễ dàng. Ngược lại người dân thường sống chen chúc trong các nhà gác giữa đường phố chật hẹp, thì phải đi vệ sinh vào cái gọi là “máng cỏ ngựa”, để hàng ngày có người đổ phân đến lấy đi. Những người phu đổ thùng được tổ chức thành một phường hội. Mỗi phường chịu trách nhiệm thu phân ở một khu vực khác nhau, không được dẫm vào lãnh địa của phường khác, những vụ vi phạm khu vực có thể dẫn đến việc kiện cáo lên cửa quan.

Tình hình vệ sinh ở Thăng Long, tức Hà Nội xưa như thế nào, chúng ta không thấy ghi chép trong sử sách. Nhưng qua những nhân chứng cuối thế kỷ XIX, chúng ta cũng có thể hình dung phần nào cuộc sống của người dân đô thị nước ta trước và ngay sau khi người Pháp chiếm đóng.

Theo lời kể của một phụ nữ đã sống trong những năm 80 của thế kỷ XIX, thì: “Trừ các đường ở phố Khach (tức phố Mã Mây ngày nay - TG), ở giữa có một phần lát gạch, còn các đường khác đều bằng đất nện, đầy bùn và rác do cư dân hai bên đường và khách qua lại vứt ra mà không ai nghĩ đến việc quét dọn cả! Khi trời mưa, những con đường trở nên lầy lội, ở một số con đường, người ta phải xếp một hàng gạch nối nhau để người đi đường có chỗ đặt chân. Không có cống rãnh thoát nước, nước đọng lại khắp nơi, mùa viêm nhiệt mùi hôi thối bốc lên kinh khủng. Không cần nói cũng biết rằng những con đường đó là nguồn ổ dịch bệnh, các bệnh đậu mùa, thổ tả và sốt rét tàn hại hàng năm…” (2).

Một người Pháp, bác sĩ Hocquard cũng có những quan sát tương tự: “Trong những khu phố giàu có, như phố Cờ Đen (tức phố Mã Mây ngày nay) của người Hoa (…) đường phố giữ gìn tử tế và có những ngôi nhà đẹp hai bên. Đường gồ sống trâu, lát đá tảng, hai bên có hai rãnh hẹp và sâu để dẫn nước mưa và nước thải xuống cống” (3). Qua đó ta có thể suy luận rằng người Trung Hoa đã có một quy tắc xây dựng đô thị từ lâu đời, nên phố xá của họ đỡ bị ô nhiễm hơn, còn thành thị của người Việt vốn chỉ là một ngôi làng lớn (Kẻ Chợ) nên không có một quy hoạch nào hết. Hãy xem thêm lời kể của nhân chứng nói trên: “Nhà cửa được xây dựng tuỳ theo ý thức của chủ nhà. Nó không theo một khuôn mẫu nào, không có một trật tự nào, nhiều nhà nhô ra đường. Mỗi nhà có một mái hiên bằng tre đan nhô ra, khiến lối đi của khách qua đường càng hẹp lại. Nếu một đám chảy xảy ra ở bên ngoài nhà thì chỉ có cách là chạy theo lối sau hay nhảy xuống ao hồ. Tôi có thể chỉ cho thấy ở sân trong một số ngôi nhà cổ những bể chứa nước phòng khi hoả hoạn” (4). Còn một điều chúng ta chưa thể biết được là thời đó rác rưởi sinh hoạt ngoài việc ném ra đường còn có nơi chứa nào khác không, và việc thu don rác trong thành phố do ai đảm nhiệm. Không thấy có một tài liệu nào ghi cả.

Còn quang cảnh quanh Hồ Gươm thơ mộng ngày nay theo lời kể của một người Pháp cuối thế kỷ XIX thì: “Các túp lều của dân bản xứ san sát nhau bên bờ hồ đến nỗi để xuống được hồ, sau khi rời những con đường, mặc dù khá bẩn nhưng vẫn đi được, người ta phải len lỏi qua những ngõ chật hẹp men theo hàng ngàn khúc quẹo quanh những ngôi nhà lá lụp xụp phía trong chen chúc đám dân cư khốn khổ, phải nhảy qua những vũng nước hôi thối và những đống rác” (5).

Thành thị với công nghiệp hoá

Công nhân ngâm mình trong nước thải ở hố ga cống ngầm để nạo vét bùn rác

Công nhân ngâm mình trong nước thải ở hố ga cống ngầm để nạo vét bùn rác

Việc đô thị hoá cấp tập đi cùng với công nghiệp hoá đã đưa đến tình trạng tập trung cư dân không ngừng. Những khu công nghiệp mọc lên xen lẫn với khu dân cư càng làm cho vấn đề ô nhiễm của thành thị thêm trầm trọng. Bên cạnh những phố xá sang trọng và sạch đẹp của tầng lớp thượng lưu, còn có những khu ổ chuột của người lao động làm thuê. Đặc biệt các thành thị ở những nước đang phát triển, vì không có chuẩn bị quy hoạch để đón trước sự bành trướng kinh tế, nên nhiều thành phố trở nên những đô thị khổng lồ (mégalopolis), dân cư chen chúc, trong đó có một bộ phận lớn là người lao động nghèo khổ sống trong những điều kiện rất tồi tệ, không được hưởng một điều kiện vệ sinh tối thiểu nào, càng góp thêm phần gây ô nhiễm.

Thành thị Việt Nam dưới thời thuộc địa không được phát triển cho lắm, dân số tập trung chưa cao. Do vậy việc quản lý vệ sinh đô thị của người Pháp cũng được tiến hành một cách giản đơn. Việc đầu tiên người Pháp phải làm là cung cấp nước sạch cho thành phố, các thành thị đều được xây dựng nhà máy nước. Nhưng nếu như nước được dẫn theo đường ống đến tận từng nhà trong “khu phố Tây” hay nhà riêng của người Pháp và một số tầng lớp thượng lưu Việt Nam, thì ở khu phố của người Việt Nam máy chỉ dẫn đến các vòi nước công cộng đặt ở gần các ngã tư đường phố, từng nhà phải có người ra gánh về để chứa trong chum trong bể. Một loại lao động chuyên đi gánh nước thuê xuất hiện gọi là những “thằng nhỏ”. Còn nhà vệ sinh thì hầu như ở các khu phố của người Việt chưa có hố xí tự hoại, mãi đến gần đây cảnh đổ thùng vẫn còn tồn tại ở Hà Nội và nhiều thành phố khác. Nhưng đến ngày nay, mặc dầu cơ sở hạ tầng của nhiều thành phố lớn nước ta đã được cải thiện rất nhiều, nhưng do việc mở rộng thành phố thiếu quy hoạch, dân số tăng quá nhanh, nên các công trình vệ sinh đô thị trở nên quá tải, không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường.

Đến cuối thế kỷ XX, sự phát triển của các kỹ thuật hiện đại đã giúp cho việc phát triển nhanh chóng của sản xuất công nghiệp. Nhưng cũng do đó mà đẻ ra một khối lượng lớn chất phế thải, vô vàn chất khoáng hay chất hữu cơ không tự phân huỷ được bằng vi sinh. Sự phát triển của giao thông, như ta đang chứng kiến tình hình trong vòng hai mươi năm trở lại đây, đã góp một phần nghiêm trọng vào việc ô nhiễm môi trường. Cũng không nên bỏ qua yếu tố nông nghiệp thâm canh sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu độc hại, và việc sử dụng những chất ô nhiễm trong sinh hoạt gia đình. Như vậy đặc điểm của văn minh công nghiệp là sự tăng trưởng đột biến của số lượng và cường độ ô nhiễm. Ngoài những hậu quả có hại cho sức khoẻ con người, nó còn phá hoại sự cân bằng của hệ sinh thái. Đáng chú ý là có những nước công nghiệp phát triển lại không chịu tham gia chương trình làm giảm ô nhiễm trên phạm vi toàn cầu, như nước Mỹ hiện nay đã từ chối không thực hiện việc làm giảm khí thải công nghiệp. Một lần nữa, con người đang phát minh ra những điều để tự huỷ hoại mình, nhưng với lương tri của những người có thiện chí trên thế giới, và với đầu óc sáng tạo không ngừng của mình, rồi đây con người vẫn có thể dập tắt được những đám cháy do chính mình gây nên.

______________

1. Theo Jacques Gernet, Đời sống thường ngày ở Trung Quốc(1250-1276), Hachette, 1959.

2. Xem Xưa và Nay,số tháng 10-1999, tr. VIII.

3. Bác sĩ Hocquard, Một chiến dịch ở Bắc Kỳ, 1892.

4. Xem Xưa và Nay,nt.

5. Xem Xưa và Nay, số tháng 12-1999, tr. E.

Nguồn: Xưa và Nay, số 91, tháng 5/2001

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.