Vệ sinh chăn nuôi để có thực phẩm an toàn
Đợt dịch cúm gia cầm đã làm vấn đề về tính an toàn thực phẩm trở nên nóng bỏng hơn. Trong chăn nuôi còn có yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm như: môi trường chuồng trại, không khí, nuôi dưỡng chăm sóc, thức ăn, nước uống, thậm chí cả khi giết mổ, vận chuyển, lưu thông và bày bán…
Hiện nay, chăn nuôi gia súc, gia cầm của các cơ sở cung cấp chính cho thị trường trong cả nước, chủ yếu là những gia đình ở nông thôn hầu như hoàn toàn làm đúng theo ý riêng tự phát, không theo một mô hình nào của ngành chăn nuôi thú y. Chẳng hạn, trong khi ngành thú y khuyến cáo phải xây dựng chuồng trại ở nơi có không khí trong sạch, nguồn nước không bị ô nhiễm thì họ lý luận “để bảo đảm bầu không khí hít thở của con người không bị vấy bẩn”, cho nên chuồng trại ở những nơi này lại được xây dựng ở những nơi ô nhiễm nặng các khí thải công nghiệp, khói bụi, giao thông, các chât thải trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Cả nguồn nước uống, cố hữu theo quan niệm “tiện” cho việc sinh hoạt của gia súc, gia cầm, nước được sử dụng ở các ao, hồ tù đọng hoặc nguồn nước có nguy cơ nhiễm vi khuẩn gây bệnh, chất độc hại do ô nhiễm môi trường công nghiệp nhiều nhất, theo cảnh báo của chính ngành môi trường và thú y.
Thức ăn là nguồn dinh dưỡng chính để tạo ra thực phẩm ngon và sạch trong quá trình chăn nuôi. Thế nhưng, nhìn các hộ làm kinh tế VAC (vườn - ao - chuồng) hiện nay đều nuôi gia súc, gia cầm bằng thức ăn tăng khối lượng và lạm dụng thức ăn này một cách thái quá nhằm rút ngắn ngày xuất chuồng. Đó là chưa kể đến việc chủ nuôi tận dụng những thức ăn ôi thiu của người cho gia súc, gia cầm ăn cũng như sử dụng thuốc thú y một cách vô tội vạ. Hậu quả là không chỉ dịch cúm gia cầm xảy ra vừa qua, mà thực phẩm vẫn không đảm bảo chất lượng, nếu như chưa muốn nói là thực phẩm tồn dư độc tố. Theo báo cáo thực trạng vệ sinh thú y và sản phẩm thịt động vật giai đoạn 2002-2004 trong số 107 mẫu thịt lợn mang xét nghiệm có tới 35 mẫu (chiếm 32,7%) đều nhiễm nặng các chất kháng sinh, hoá chất bảo vệ thực vật và kim loại nặng… Với gia cầm, qua xét 74 mẫu thì có 1,3% số mẫu nhiễm kháng sinh và hoá chất bảo vệ thực vật. Thịt bò, mật ong cũng đều bị nhiễm như vậy.
Tuy nhiên, chỉ với thịt xuất khẩu mới được làm xét nghiệm, còn thịt bán ở thị trường trong nước, không thể thực hiện các bước kiểm tra như với thịt xuất khẩu. Vì cả nhà nước và tư nhân đều không có kinh phí để thực hiện các bước kiểm tra về chất độc hại tồn dư ở gia súc. Chỉ tính đơn giản như thế này: để xét nghiệm chất tồn dư ở mỗi động vật, có thể là gà, lợn, bò,.. cần phải kiểm tra từ 15-20 chỉ tiêu (mỗi lĩnh vực là một chỉ tiêu, ví dụ như kháng sinh là một chỉ tiêu, hoá chất bảo vệ thực vật là một chỉ tiêu…) Mỗi chỉ tiêu kiểm tra cần từ 200.000-300.000đ chi phí. Vậy một con lợn hoặc gà có bán được 6 triệu đồng để bù vào số tiền kiểm tra đó? Đã vậy, ngay trong số chỉ tiêu cần kiểm tra, có chỉ tiêu chúng ta “lực bất tòng tâm”, nghĩa là không thể kiểm tra được như hoóc môn tăng trưởng tồn dư trong thịt động vật chẳng hạn. Chúng ta không có phương tiện cũng như không đủ trình độ để xét nghiệm chỉ tiêu này. Hiện nay, ngành thú y chỉ có thể kiểm tra định tính đối với nó, chứ không thể xác định chỉ số rõ ràng để cơ thể cho phép hoặc không cho phép thịt do nhiễm hoóc môn sinh trưởng bán ra ngoài thị trường, cùng với chất độc tố tồn dư khác: kim loại nặng, hoá chất bảo vệ thực vật… ngành y tế khuyến cáo đều là nguyên nhân gây nên bệnh ung thư ở người.
Còn vi sinh ở động vật thì “khỏi phải bàn, có nhiều loại nhiễm vi sinh”. Và nguyên nhân của nó xuất phát chủ yếu việc giết mổ không đúng quy cách. Ai đã từng chứng kiến cảnh giết mổ thịt lợn ở lò mổ Khương Đình hay Tam Chinh là những lò mổ lớn nhất Hà Nội thì có lẽ lòng lợn sẽ là món phải “từ giã” đầu tiên và vĩnh viễn không bao giờ dám ăn. Trong diện tích mấy trăm mét vuông, họ ngăn ra từng ô nhỏ và từng ô nhỏ ấy sẽ là nơi hành nghề của các “đồ tể”. Theo nguyên tắc của ngành thực phẩm, lợn khi làm thịt, nơi cắt tiết, làm lòng, cạo lông… phải riêng biệt với nhau để giữ gìn vệ sinh cho từng sản phẩm. Vậy mà ở hầu hết các lò mổ này chẳng nơi nào thực hiện nguyên tắc ấy. Cứ tiện đâu làm đấy, họ thực hiện tất cả các khâu cùng một chỗ. Bất kể đấy là chỗ nào: có thể là lối đi, là cống thoát nước, là nơi còn lèo phèo những lòng và phân lợn vãi đầy, hay là nơi hàng trăm đôi dép, ủng đã đi “trên trời, dưới biển” và ở tất cả mọi xó xỉnh… Mất vệ sinh hơn là tất cả những sản phẩm của con lợn đã giết mổ được làm “sạch” bằng thứ nước “tạp phế lù” đầy những thứ nổi lềnh phềnh trên bề mặt. Theo một cán bộ thú y theo dõi nghề giết mổ lâu nay, trong tổng số hơn 12 nghìn lò mổ trên toàn quốc hiện nay, chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ đạt tiêu chuẩn, quy trình, tức là giết mổ tập trung liên hoàn. Và hầu hết những lò mổ này đều nằm ở phía Nam . Còn ở miền Bắc các lò mổ hầu như chỉ là tự phát do đó thực hiện sai quy trình và giết mổ một cách tuỳ tiện. Nói chính xác những lò mổ ở miền Bắc chỉ gọi là nơi tập trung giết mổ chứ chưa thể gọi là nơi giết mổ tập trung theo đúng nghĩa của lò mổ hiện nay. Gần đây, ở Hà Nội đã xây dựng lò Lương Yên theo đúng cách giết mổ hiện đại. Nhưng trớ trêu thay! chẳng chủ trại nào mang lợn đến đây mổ, vì theo họ “lệ phí giết mổ ở đây đắt hơn, thời gian giết lợn lại lâu hơn mà lãi chẳng thêm đồng nào thì đến đó làm gì cho “lõm” túi tiền! Và kết quả là chỉ có người tiêu dùng phải “chịu trận”.
Ngoài ra, tư nhân còn mổ lợn, gia cầm ở khắp mọi nơi một cách bừa bãi, cẩu thả. Người ta có thể đè nghiến con lợn, con gia cầm bất cứ chỗ nào mà họ cho là thuận tiện để cắt giết mổ thịt. Mổ xong thịt được rửa “sạch - làm phép” bằng nước ao tù, nước bẩn… để “che mắt thánh”. Thịt được vận chuyển đến các chợ cóc hoặc đưa vào các hang cùng, ngõ hẻm bằng các dụng cụ chứa đựng như: sọt, thúng, bao tải hoặc phơi trần mặc cho mưa, nắng, rất bụi… Thịt được bày bán trên những chiếc bàn ọp ẹp bẩn thỉu hoặc trên một miếng ván hay trải nylon, bao tải, lá chuối… trên nền đất ở bất cứ vị trí nào miễn là thuận tiệt cho các “thượng đế” dễ tính đến mua.
Trong khi phương pháp giết mổ khoa học hiện nay trên thế giới, trước khi cắt tiết bất kỳ một con gia súc nào phải cho nó nghỉ ngơi, tắm rửa sau khi trải qua quá trình vận chuyển để tránh ‘stress”, nhằm bảo đảm chất lượng thịt ngon, không bị giảm các chất bổ dưỡng cũng như giữ vệ sinh an toàn thực phẩm. Và khi giết mổ cũng phải tiến hành một cách nhân đạo, nghĩa là gây bất động trước khi giết, còn hiện nay gần như tất cả các thợ mổ đều giết chúng bằng cách đập đầu gia súc vào tường hoặc dùng búa đập chết, rồi mới cắt tiết hoặc giết sống luôn. Làm như vậy, thịt sẽ không bảo đảm vệ sinh và chất lượng thịt.
Trước tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm đang diễn ra như trên, để tránh bị ngộ độc trong ăn uống do các độc tố tồn dư trong thực phẩm gây nên chỉ có cách là ăn chín uống sôi tất cả các thức ăn. Có trường hợp ăn tái những gan, thịt… đã dẫn đến hậu quả bị giun bao, là loài giun nằm khắp cơ thể ngay dưới lớp da của con người. Loại giun này sinh sản rất nhanh, vì vậy người mắc bệnh phải uống thuốc suốt đời để kìm hãm sự phát triển của nó. Nếu không, nó sẽ làm suy kiệt sức khoẻ và dẫn đến tử vong.
Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trở nên tốt hơn, thì không có giải pháp hữu hiệu nào hơn là lương tri của những người tạo ra nguồn thực phẩm, phân phối thực phẩm cung cấp cho con người. Đó chính là cái gốc và cái gốc đó nếu không thay đổi thì tất cả những giải pháp khác đều gần như vô nghĩa.
Nguồn: Tạp chí chăn nuôi, 5/05, tr 26 - 28








