Về một số thuốc không cần kê đơn
Thuốc kê đơn, nếu không dùng đúng theo chỉ định của bác sĩ kê đơn có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người dùng thuốc. Còn thuốc không kê đơn, còn gọi là thuốc OTC (viết tắt của Over The Counter, có nghĩa là thuốc bán ở quầy không cần đơn thuốc), là thuốc có độc tính thấp, không có những tác dụng phụ có hại nghiêm trọng. Thuốc OTC cũng là thuốc dùng trong điều trị các bệnh thông thường và người bệnh có thể tự điều trị, không nhất thiết có sự thăm khám, chỉ định thuốc hoặc theo dõi của bác sĩ.
Riêng về thuốc OTC, ngày 1 - 7 - 2009 vừa qua, Bộ Y tế đã ban hành “ Danh mục thuốc không kê đơn” và hướng dẫn thực hiện danh mục này. Rồi đây, hằng năm “ Danh mục thuốc không kê đơn” sẽ được sửa đổi bổ sung để có danh mục mới, trong đó có thuốc sẽ bị loại bỏ vì phát hiện có tác dụng phụ có hại nghiêm trọng, hoặc có thuốc được bổ sung do đã chứng tỏ tính an toàn. “ Danh mục thuốc không kê đơn” bao gồm hai loại: danh mục thuốc hóa dược và danh mục thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ.
![]() |
Có 2 ghi nhận về danh mục thuốc không kê đơn.
Thứ nhất là thuốc giảm đau hạ nhiệt paracetamol. Không chỉ có paracetamol phối hợp với các thuốc khác, đặc biệt có cả paracetamol phối hợp với thuốc gây nghiện codein. Trước đây, thuốc paracetamol phối hợp với codein thuộc loại kê đơn bởi vì liên quan đến tính chất gây nghiện. Nay, thuốc phối hợp này thuộc loại không kê đơn nhưng được chú thích: dạng thuốc chia liều không được chứa 30 mg codein/ đơn vị dạng thuốcvà đặc biệt , “thành phẩm chứa paracetamol và codein được bán không cần đơn với số lượng tối đa cho 10 ngày sử dụng”. Như vậy, trong danh mục thuốc không kê đơn vẫn có thuốc có “những điều kiện bắt buộc có sự tuân thủ của người phân phối và sử dụng thuốc” chứ không phải sử dụng vô điều kiện. Đặc biệt, trong danh mục có thuốc loại đặc biệt này, là nhằm để đáp ứng thuận lợi hơn chăm sóc điều trị đau theo phác đồ “3 bước thang giảm đau” của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Theo phác đồ giảm đau của WHO, khi mới đau tức nhẹ chỉ dùng thuốc giảm đau thông thường (không opioid) là paracetamol hoặc thuốc giảm đau kháng viêm không steroid (NSAID); đau ở mức trung bình nên dùng thuốc kết hợp không opioid kết hợp với opioid yếu (như paracetamol + codein), còn đau nặng như đau ung thư phải dùng opioid mạnh (như morphin). Hiện nay ở ta, bệnh nhân đau loại trung bình cũng khá nhiều nên thuốc paracetamol + codein được xếp vào loại không kê đơn để người bệnh dễ tiếp cận với thuốc điều trị hiệu quả là điều hợp lý.
Ghi nhận thứ hai là thuốc orlistat. Đây là thuốc giảm cân chống béo phì. Béo phì không chỉ liên quan về thẩm mỹ của vóc dáng cơ thể mà còn thường kết hợp với các bệnh như đái tháo đường, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, và với xu hướng bị hư khớp đỡ (đầu gối, háng, cột sống…).
![]() |
Hiện nay có 2 thuốc giảm béo được FDA Mỹ chấp thuận dùng trong điều trị và cũng được phép dùng ở nước ta, đó là sibutramin và orlistat. Sibutramin là loại thuốc bán phải có đơn bác sĩ, thuốc gây chán ăn tác động trên hệ thần kinh trung ương theo cơ chế ức chế sự tái hấp thu 2 chất dẫn truyền thần kinh là noradrenalin và serotonin. Tuy không gây nghiện nhưng sibutramin có thể gây một số tác dụng phụ như tăng huyết áp, tăng nhịp tim. Còn orlistat gần như cho tác dụng tại ruột, không tác dụng trên hệ thần kinh trung ương và không ảnh hưởng tim mạch. Tác dụng của orlistat là gắn với lipasse (là enzym ở ruột phải phân giải chất béo giúp chất béo hấp thu) làm lipase mất hoạt tính, do đó gián tiếp làm chất béo không hấp thu quan niêm mạc ruột được. Đặc biệt, orlistat chỉ ngăn cản một phần chứ không ngăn cản hoàn toàn sự hấp thu chất béo (nếu hoàn toàn thì bao nhiêu mỡ ăn vào sẽ theo phân ra ngoài hết và như thế là mắc chứng đi tiêu phân mỡ). Tuy nhiên, orlistat có tác dụng phụ là gây rối loạn tiêu hóa do làm rối loạn hấp thu mỡ, có thể rối loạn sự hấp thu các vitamin tan trong dầu mỡ như vitamin A, D…










