Về Hát Môn nhớ chiến công xưa
Tương truyền sau khi mất, khí anh linh Hai Bà kết thành tượng đá, theo dòng nước trôi xuôi, mãi đến đời Lý mới tới vùng Thăng Long. Đêm đầu tháng 2 âm lịch, hai pho tượng tỏa sáng trên dòng sông Nhị trước làng Đồng Nhân, dân lấy vải đỏ buộc tượng đón vào thờ. Từ đó Đồng Nhân kết nghĩa với Hạ Lôi là quê hương và Hát Môn là nơi Hai Bà tụ nghĩa, tế cờ, truyền hịch. Nhân kỷ niệm 1966 năm cuộc Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40- 2006), xin kể về Hát Môn.
Xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây nằm ở cửa sông Hát. Tại đây vào mùa Thu năm Kỷ Hợi (39), trên bãi Trường Sa ở Tả ngạn, hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị dựng đồn lũy, chiêu tập nghĩa sĩ để đánh lại Tô Định.
Một xin rửa sạch quốc thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba khỏi oan ức lòng chồng
Bốn xin trọn vẹn thỏa công lênh này
Mùa xuân năm Canh Tý (40) các cánh quân tiến đánh trị sở của Tô Định ở Luy Lâu (vùng Thuận Thành, Bắc Ninh bây giờ). Quân Đông Hán đại bại. Tô Định phải cải trang làm dân thường mới trốn thoát. Đất nước bình yên, Bà Trưng lên ngôi, xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Năm Tân Sửu (41) Hán Vũ Đế sai Phục Ba tướng quân Mã Viện đem 2 vạn quân cùng 2.000 thuyền xe sang đánh phục thù. Đầu tháng 3 năm Quý Mão (43) sau trận Lãng Bạc, Hai Bà lui về cố thủ ở Cẩm Khê rồi hy sinh tại đây. Ngay sau đó, nhân dân Hát Môn đã dựng đền thờ. Đền tọa lạc giữa khu đất rộng 5 hécta, quanh đền có nhiều cổ thụ.
Từ cổng đi một quãng ngắn, rẽ trái là vào khu vực đền Hát Môn, gồm đại bái, tòa thiêu hương và hậu cung. Năm 1959, dân làng chuyển ngôi đình làng Hát Môn (cách đền khoảng 1km về phía Tây) dựng vào vị trí tòa đại bái. Đại bái 3 gian; gian chính giữa rộng 4,7 mét, gian bên rộng 3,5 mét, cột cái đường kính 51cm. Năm 2005, Nhà nước đã đầu tư 2,6 tỷ đồng để trùng tu đền. Hai con kìm chạm rồng, hai câu đầu, tám bức cốn… là những dấu tích còn lại của kiến trúc xưa. Tại đền còn giữ được nhiều đồ tế khí như bát bửu, chấp kích, kiệu cùng các hoành phi, câu đối, trong đó có bức “Lạc Hùng chính thống” tạo vào đời vua Tự Đức. Các cụ ở làng cho biết, trước đây đền có tượng Hai Bà đặt ở hậu cung. Năm 1883, sau khi chiếm Hà Nội, thực dân Pháp mang hai pho tượng đi, từ đó thay vào vị trí 2 pho tượng là bài vị của Hai Bà. Năm 1990, dân làng và khách thập phương công đức 25 triệu đồng để tạc tượng Hai Bà theo nguyên mẫu ở đền Đồng Nhân (Hà Nội).
Hằng năm, lễ hội tưởng niệm Hai Bà ở Hát Môn có 3 kỳ.
Ngày 4 tháng 9 âm lịch là ngày Hai Bà lập đàn thề, làng tổ chức tế cờ khao quân.
Ngày 24 tháng Chạp có lễ mộc dục. Hàng trăm nữ tú được tuyển lựa. Vào hội, họ đóng giả quân, lập thành đạo tiền binh, đội hậu binh, mỗi đội có trang phục riêng. Tám cô gái thanh tân xinh đẹp được chọn theo hầu kiệu Hai Bà. Vào lúc nửa đêm, nghe tiếng trống hiệu, lập tức trai gái xếp thành hàng ngũ. Các chân cờ, chân kiệu, nghi trượng, tàn lọng vào hàng. Đám rước cử hành trong ánh đuốc sáng rực trời đêm như cuộc hành quân lớn. Đến nhà Dội (nhà mộc dục) tượng Thánh được rước ra sông làm lễ bao sái rồi về đền. Lúc khởi hành, kiệu Trưng Trắc đi trước, khi trở về kiệu Trưng Nhị đi trước. Đến sân đền, kiệu bà Trưng Nhị dừng lại để kiệu Trưng Trắc vào đền phụng nghênh trước.
Ngày 6 tháng 3 âm lịch kỷ niệm ngày Hai Bà hy sinh. Ngày 5 có tế cáo yết. Ngày 7 có hát ca trù và lễ “tuyên sắc”. Một vị chức sắc hoặc một người đỗ đạt của làng đọc một bản sắc phong của vị vua triều đại trước. Đặc biệt lễ vật dâng cúng Hai Bà vào ngày chính lễ mồng 6 có bánh trôi, còn gọi là bánh “tù tì”. Chuyện kể trước lúc nghĩa quân lên đường có một bà già nghèo bán bánh đã dâng cả gánh hàng ủng hộ nghĩa quân để tỏ lòng mến mộ. Hai Bà cảm ơn và ăn cùng quân sĩ. Cũng từ truyện tích này, dân Hát Môn không ăn bánh trôi vào ngày 3 tháng 3 và chỉ đến ngày 6 tháng 3 mới làm bánh cúng Hai Bà. Gạo nếp cái hoa vàng đem đãi để cho ráo nước rồi giã ba lần, để riêng thành ba loại. Sáng sớm hôm mồng 6, bột nếp lớp hai đem ngào với nước rồi cho vào cối, dùng chày thúc cho thật nhuyễn rồi mới vê thành viên. Các đĩa bánh này được dâng lên ban thượng trước ban thờ Hai Bà. Bột lớp một và lớp ba ngào chung làm bánh đặt tại các ban. Cũng vào sáng mồng 6, chỉ sau khi tế xong ở đền, tại các tư gia, dân làng mới đặt bánh lên ban thờ tổ tiên. Để ghi nhận tấm lòng yêu nước của bà cụ, trước đây, làng cũng xây một cái miếu nhỏ bên gốc đa trước đền Hát Môn, mọi người vẫn tới thắp hương.
Nguồn: hanoimoi.com.vn 6/3/2006








