Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 19/08/2011 21:11 (GMT+7)

Văn hóa vật chất qua truyện cười Việt Nam và Nhật Bản một cái nhìn so sánh

Trong các số tạp chí 322, tháng 4-2011 và hai số tiếp sau, VHNT lần lượt giới thiệu với bạn đọc chùm bài nghiên cứu so sánh một khía cạnh văn hóa đời sống được phản ánh trong truyện cười dân gian hai nước.

Một mục đích của truyện cười là khám phá và chế giễu những mặt trái của cuộc sống trong nhiều lĩnh vực, từ món ăn thức uống đến các cách sinh hoạt thường nhật của người xưa. Cuộc sống của người dân qua từng mẩu truyện cười hiện lên một cách đầy đủ, sâu sắc.

Sự tương đồng

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy sự tương đồng về văn hóa ẩm thực là nổi bật nhất trong mảng truyện cười về văn hóa vật chất của hai nước. Câu thành ngữ “có thực mới vực được đạo” đã trở nên thân quen, gắn liền với bao thế hệ con người ở hầu hết các nước trên thế giới. Những bữa ăn dù đạm bạc hay no đủ, trước tiên, phải để bảo tồn sự sống. Miếng ăn được xem trọng nhưng nếu coi miếng ăn làm trọng thì lại dẫn đến rất nhiều chuyện vi phạm vào đạo đức xã hội, gây cười và hơn thế nữa.

Đả kích tính tham ăn của con người ở Nhật Bản có truyện Cám ơn quá sớm , khi tiệc mời được dọn ra, người đàn ông trong truyện đã quá phấn khích mà cảm ơn luôn chủ nhà: Nhiều món ngon vật lạ quá! Tôi thấy ngon miệng vô cùng. Tương tự, người Việt có truyện Được một bữa thả cửa . Một chị lấy phải anh chồng tham ăn, hễ ngồi vào mâm là chúi mũi gắp lấy gắp để, không nghĩ đến ai. Chị ta xấu hổ lắm, khuyên mãi phải ăn uống từ tốn mà anh chồng vẫn chứng nào tật ấy. Một hôm nhà bố vợ có giỗ, hai vợ chồng đi ăn cỗ, sợ chồng ăn uống thô lỗ thì xấu mặt chị ta liền lấy một sợi dây buộc vào chân chồng, còn đầu kia chị cầm lấy và dặn chồng: “ Hễ bao giờ tôi giật dây mới được gắp đấy!”. Chồng đồng ý. Vào mâm, mọi người đều thấy anh này ăn uống từ tốn, lịch sự. Chị vợ ở dưới bếp vừa làm vừa giật dây. Đôi lúc mải làm, quên không giật làm anh chồng cứ phải ngồi ngây ra nhìn món ăn mà nhỏ rãi. Bố vợ phải gắp thức ăn cho. Đến giữa bữa, một con gà đi qua chẳng may vướng phải dây co chân giật gỡ mãi vẫn không được. Ở trên anh chồng thấy dây giật lia lịa, vội vàng cắm đầu gắp. Càng gắp thấy dây càng giật tưởng vợ cho ăn thả cửa, anh ta vớ luôn cả đĩa thức ăn trút vào bát. Hai nhân vật trong truyện mặc dù có người kiềm chế tính tham ăn của họ nhưng họ vẫn không thể che giấu được tính xấu kia. Không sớm thì muộn họ cũng tự bộc lộ bản chất của mình.

Thói tật ăn vụng những đồ cấm kị của các nhà sư cũng được dân gian hai nước phản ánh đầy đủ và sâu sắc trong các truyện Mua cá, Con mực, Nhổ lông gà… (Nhật Bản) và Con thanh tịnh, Đậu phụ cắn, Lá húng lá húng… (Việt Nam ). Những tình huống ngẫu nhiên đã tố cáo việc ăn vụng đồ cấm kỵ của các nhà sư.

Truyện cười hai nước cũng phô bày tất cả những cái xấu xa, bất chấp cả lòng tự trọng trước miếng ăn của con người. Miếng ăn trở thành nguyên nhân gây hiểu lầm, xung đột giữa chủ nhà với khách Ăn theo bằng trắc, Ông ấy ăn hết cả, Chà lọ nghẹ, Hai phần cơm…(Việt Nam ), Khách đến trong khi nướng bánh(Nhật Bản)… Hay vì chút sĩ diện hão mà người chồng đay nghiến vợ, đánh con để tỏ rõ tình cảm thiết đãi khách quý trong truyện Nước chấm này, Bẹo con, Hâm nước mắm...Bên cạnh đó có người trở nên lạnh lùng với bạn bè, không màng đến vợ con, mất cả tình anh em, gây tội lỗi cả với đấng sinh thành như nhân vật trong truyện: Không có con nào nhỏ cả, Dài tới rá xôi, Giờ mới ló đầu ra, Nó ăn ở trong, Chả lẽ mời cả làng ăn à?, Ăn chả cò, Có hiếu, Cúng giỗ…(Việt Nam ), Ngày kiêng ăn, Cáo phó…(Nhật Bản).

Bên cạnh nguồn thức ăn chính, chúng ta cũng bắt gặp nhưng thức uống hàng ngày của nhân dân hai nước như rượu, trà… qua các truyện Ông rậm râu, Bác cứ mời đi, Cái mũi thính, Ẻ vô ấm(Việt) và Đọc thư hộ, Người không rượu vĩ đại nhất, Người phu ngựa thồ, Bất cẩn…(Nhật). Thích uống nước trà cũng là một nét văn hóa rất riêng của ẩm thực Việt Nam , Nhật Bản mà truyện cười có đề cập. Dưới góc nhìn của truyện cười, bát nước trà không còn nguyên vẹn ở khía cạnh văn hóa lịch sự vốn có. Cái hài, cái tinh nghịch của người dân hai nước đã khiến nét văn hóa này thêm thú vị. Những yếu tố này góp phần tạo nên sự tương đồng trong truyện cười hai nước.

Văn hóa vật chất qua truyện cười hai nước còn thể hiện ở hoạt động kinh tế của người dân. Từ hoạt động này cũng tạo ra không ít điểm tương đồng giữa truyện cười hai nước. Rất hóm hỉnh, một loạt nghề của người dân hai nước được vẽ lên khá đầy đủ như: nghề buôn bán trong Tăng giá mọi điều (Nhật Bản) và Buôn vịt trời, Hết trị, Khóc cái tuổi, Không phải thịt lợn sề… (Việt Nam), nghề bán cá trong Con sò (Nhật Bản), Cái biển hàng (Việt Nam), nghề giúp việc trong Người hầu được trừ tà, Nhiệt độ nước tắm (Nhật Bản) và Ba anh đầy tớ, chó biết nói, Lửa cháy nhà, Mướn đầy tớ không tiền… (Việt Nam ), nghề thầy thuốc trong Xem mạch người hầu, Thầy lang tự khen mình… (Nhật Bản) và Bốc thuốc theo sách, Bị mắng, Cái chổi lông gà, Mánh khóe, Cho sống lại, Chữa ma ra người… (Việt Nam), nghề ăn trộm trong Cửa hàng (Nhật Bản) và Ăn trộm bị lỗ vốn, Ăn trộm thật thà, Bắt được sợi dây… (Việt Nam), thậm chí nghề kỹ nữ cũng xuất hiện nhiều trong các truyện hai nước Thanh toán hóa đơn, Muốn làm samurai, Đi xem lồng đèn, Tiền thuốc…. (Nhật Bản) và Đi tu phải tội (Việt Nam )…

Sự khác biệt

Bên cạnh rất nhiều những điểm tương đồng, thói xấu biểu hiện trong văn hóa ẩm thực của hai nước cũng có những điểm khác biệt nhất định. Có những thói xấu xuất hiện rất nhiều trong truyện cười người Việt nhưng rất ít trong truyện cười người Nhật, như là thói ăn vụng. Ở Nhật Bản, thói ăn vụng chỉ xuất hiện ở những truyện chế giễu thói ăn vụng đồ cấm kỵ của nhà sư ( Con mực, Mua cá ), trong khi đó ở truyện cười của người Việt, thói ăn vụng xuất hiện rất nhiều và ở nhiều đối tượng khác nhau. Đó là những phụ nữ chuyên ăn quà vặt hàng quán như ở các truyện Múi lúi xơ lơ, Đồng môn đồng khoai, Răng hô, Củi sòi cá thòi lòi… Đó là những bà vợ luôn trốn chồng đi ăn vụng ( Ăn phúng cháo kê, Bốn cu, Thông minh… ) và kể cả các bậc mày râu cũng không thua kém các bà về khoản ăn vụng như anh chồng trong truyện Mồ hôi đen, Gãy xương sống, Lại chuyện ăn vụng cháo trè, Từ cha… Truyện cười Việt không chỉ phản ánh, phê phán những nông dân ít chữ có thói hư tật xấu trong văn hóa ẩm thực mà đến cả những trí thức, quan lại cũng không che giấu được hết hạn chế này của mình ( Thày đồ liếm mật, Đừng nói nữa… tao thèm )…

Trang phục người Việt cũng như người Nhật Bản ít được đề cập trong truyện cười. Nó chỉ được điểm xuyết qua cái hài ý nhị trong cách ăn mặc của người phụ nữ. Hầu hết phụ nữ Việt xưa đều mặc váy. Trang phục này xuất hiện có khi là tiếng nói buồn lòng cho người vợ khi nhất nhất nghe theo lời chồng trong chuyện ăn vận, cho dù là vận trang phục của chính họ. Tiêu biểu là nhân vật trong truyện Mặc váy nha . Nhưng cũng có khi đó là tiếng cười đả kích, châm biếm sâu cay vào bọn người xấu xa: Xắn mấn một tí là xong, Đọi rưỡi là vừa, Hay nói dại, Đằng trước hay đằng sau, Thả mấn, Nghiện thuốc phiện, Lòng gan đâu… Hầu như váy là trang phục điển hình lúc bấy giờ của phụ nữ Việt Nam . Áo dài lâu nay là trang phục truyền thống của người Việt nhưng không thấy xuất hiện trong những truyện cười mà chúng tôi khảo sát. Chi tiết này có thể nói lên nhiều điều về lịch sử của truyện cười dân gian Việt Nam được lưu trữ tới hôm nay mà chúng tôi xin được đề cập đến trong một nghiên cứu khác. Trang phục người Nhật cũng chỉ xuất hiện qua một vài truyện như: Quần áo mỏng, Tên trộm… Đó là áo choàng len, áo lót bông, áo gai, khố. Những thứ này lần lượt xuất hiện để một người khẳng định về sự mạnh dạn của mình. Một người khẳng định mình mạnh dạn hơn anh của mình chỉ vì lý do anh ta mặc quần áo ít hơn. Anh ta đưa ra ví dụ: Nếu anh ấy mặc áo choàng len thì tôi mặc áo lót bông. Nếu anh ấy mặc áo lót bông thì tôi không lót gì hết. Nếu anh ấy mặc áo không lót gì thì tôi mặc áo gai, và nếu anh ấy mặc áo gai tìh tôi đóng khố. Mọi người bấy giờ mới châm biếm hỏi thêm: “ Còn khi anh ấy chỉ đóng khố thì sao?” Anh ta tự tin trả lời: “ à, thì tôi sẽ để phất phơ”. Quả là mạnh dạn hơn người. Cũng như áo dài của người Việt, kimônô là trang phục truyền thống của người Nhật Bản nhưng rất ít xuất hiện trong truyện cười, chỉ xuất hiện trong hai truyện mà chúng tôi khảo sát. Trang phục cũng là một đặc điểm làm nên nét khác biệt giữa truyện cười hai nước. Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng vấn đề đi lại và nhà ở trong truyện cười Việt cũng chỉ làm nền cho những nội dung cười khác. Kiểu nhà trệt là hình thức chủ yếu phù hợp với mức sống của nhân dân Việt xưa, những ngôi nhà chủ yếu lợp bằng tranh tre có sẵn trong tự nhiên. Cũng qua những câu chuyện: Lợp lại mái nhà, Làm nhà chắc chắn, Chuyện mua nhà… thể hiện được sơ lược những vật dụng cần thiết để xây dựng một ngôi nhà. Cái cười thâm thúy trong Sư tre đè sư mít hay cái cười giòn giã trong Mua trecũng biểu đạt cho vấn đề ăn ở của người dân Việt xưa. Nhà cửa còn thô sơ thì vấn đề đi lại ở mức độ đơn giản nhất. Chúng ta phần nhiều bắt gặp cảnh nhân dân đi bộ, những kẻ giàu sang quyền quý mới được ngồi võng lọng khi đi xa. Cãi võng lọng nghênh ngang ngoài đường khiến tạo ra những bức tranh trái ngược giữa tầng lớp quan lại với tầng lớp bình dân. Tiếng cười tung ra làm vũ khí đấu tranh chống lại những kẻ hợm mình cậy quyền cậy thế đi lại nghênh ngang. Cũng xuất hiện trong truyện cười Việt những loại đò, thuyền, bè qua lại trên sông nước. Những câu chuyện cười xuất hiện giữa nhiều con người khi đi trên những chuyến đò: Trên một chuyến đò, Ông lái đò nói lái…

Nhà ở cũng ít thấy được đề cập trong truyện cười Nhật Bản, chỉ được nói đến trong truyện Có người phụ giúp, Cửa hàng… Truyện Có người phụ giúp có nhắc đến công việc bài trí phòng khách và tục đãi khách để giới thiệu phòng mới… Phương tiện đi lại trong truyện cười cũng chỉ dừng lại ở cấp độ đơn giản nhất, chủ yếu là đi bộ, thỉnh thoảng đi bằng thuyền (truyện Qua sông, Đánh đu… (Nhật), cũng xuất hiện phương tiện đi lại bằng ngựa trong đời sống dân tộc Nhật Bản xưa (Người cầm kích, Cưỡi ngựa…). Ngoài ra, không thấy đề cập đến các phương tiện giao thông khác.

Văn hóa vật chất qua truyện cười còn thể hiện ở hoạt động kinh tế của người dân. Qua truyện cười, các hoạt động kinh tế chủ yếu của nhân dân Việt là sản xuất nông nghiệp. Hình ảnh những nông dân qua truyện cười thật thà, mộc mạc. họ chỉ biết con trâu đi trước cái cày theo sau, suốt ngày lao động vất vả đề làm ra củ khoai, hạt gạo. Những câu chuyện thú vị về anh nông dân phải dắt trâu (bò) đi làm từ sớm mà nhìn nhầm hổ thành ra mất cả buổi cày (Mất buổi cày) và những hoạt động cấy, gặt vốn dĩ của nghề nông còn được trình bày trong các câu chuyện hóm hỉnh khác: Gãy xương sống, Anh chàng ngốc, Nghiện thuốc phiện, Chàng rể thông manh… Nông nghiệp là ngành nghề chính của dân Việt xưa để duy trì cuộc sống của mình. Những câu chuyện cười cất lên vừa khắc họa được bức tranh văn hóa vật chất đồng thời gây được tiếng cười lúc dí dỏm, giòn giã sảng khoái, khi thâm thúy sâu cay của nhân dân Việt xưa. Đặc điểm này không thấy trong truyện cười Nhật Bản mà chúng tôi nghiên cứu.

Ở lĩnh vực nghề nghiệp, bên cạnh những điểm tương đồng cũng có không tí những nét khác biệt, có những nghề không thấy trong truyện cười người Việt mà chúng tôi khảo sát. Ví dụ như nghề thầy bói, phù thủy, thày bùa, thày số, thày pháp… ( Ai nuôi tôi, Hỏi khách qua đường, Thầy bùa, Thầy pháp râu đỏ.. ), nghề thày cúng ( Chết nhầm, Chủ Nguyễn Thị Tẹo, Tra đuôi vào… ), nghề thợ mộc, thợ bạc, thợ may ( Nhất bên trọng nhất bên khinh, Cũng một môn, Hai kiểu áo… ), nghề vẽ truyền thần ( Thày quên mặt nhà con rồi sao ), nghề chụp hình ( Mau phai ), nghề tô tượng, đúc chuông, làm cầu ( Khuyến giáo… ), nghề hàn kim ( Thợ hàn lâm ), nghề làm nông ( Trung thần nghĩa sĩ cả, Mua phân… ), thậm chí nghề cho vay nặng lãi cũng được tác giả dân gian Việt đề cập đến trong truyện Đâu dám làm ông khổ lây . Ngược lại, một loạt nghề của người dân Nhật Bản được đề cập trong truyện cười nhưng không thấy ở truyện cười người Việt như: nghề bán thuốc dạo (trong Thuốc chống bổ ), nghề cho thuê nhà, xay lúa, đào giếng (trong Đào giếng trong nhà ), nghề quảng cáo, tiếp thị (trong Biển quảng cáo, Bán đầu ), nghề dạy thuật đánh kiếm (trong Thuật đánh kiếm ), nghề canh tuần (trong Thất bại của người tuần đêm, Người canh phòng lửa )…, điểm này cũng góp phần tạo nên sự khác biệt giữa truyện cười hai quốc gia.

Chợ, một địa điểm hoạt động kinh tế thương mại cũng xuất hiện trong truyện cười của người Việt nhưng không thấy trong truyện cười Nhật Bản mà chúng tôi khảo sát. Sản vật bày bán trong chợ là những sản vật xung quanh khuôn viên gia đình bé nhỏ của mỗi gia đình. Người dân hầu như đem những thứ hàng hóa do mình làm ra để trao đổi cho nhau. Đồng tiền xuất hiện làm giá trị trao đổi nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức thấp, những quan tiền hay đồng xu. Từ hoạt động thương mại này, người dân cũng chê cười các tật xấu như ăn quà, trộm cắp còn tồn tại ở một số đối tượng ( Đồng môn đồng khoai, Kêu trước lên là vừa… ).

Những câu chuyện cười cất lên vừa khắc họa được bức tranh văn hóa vật chất đồng thời gây tiếng cười lúc dí dỏm, giòn giã, sảng khoái, khi thâm thúy, sâu cay của người dân hai nước Việt Nam - Nhật Bản.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.