Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 25/08/2011 18:34 (GMT+7)

Văn hóa làng nền tảng cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở

Văn hóa nông thôn, xét trong phạm vi chung toàn bộ vùng nông thôn và trong phạm vi riêng từng làng xã, vừa thể hiện cuộc sống vật chất và tinh thần, vừa chính là nguồn lực, động lực thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh tế, tiềm năng con người và xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh ở nông thôn mới.

Văn hóa, với ý nghĩa là toàn bộ những giá trị xung quanh con người và thuộc về con người, do con người sáng tạo ra (sản xuất, phân phối, hưởng thụ giá trị, hiểu biết, tâm hồn, đạo lý, lối sống, thẩm mỹ… của cá nhân và cộng đồng) chính là tiền đề, là cơ sở để phát triển cộng đồng và xã hội. Nó được thể hiện qua phương thức, mô hình, chính sách, giải pháp phát triển văn hóa phù hợp, đúng đắn. Nghĩa là, làm sao cho các giá trị văn hóa, các yếu tố cấu thành văn hóa được tập hợp, thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hành động sáng tạo của người dân trong cộng đồng và xã hội. Đó là một nhu cầu, đồng thời cũng là một nhiệm vụ.

Văn hóa làng,và dạng thức thiết chế của nó là làng văn hóa,thỏa mãn được nhu cầu và thực thi tốt nhất nhiệm vụ này ở nông thôn. Văn hóa làng là một dạng thức đặc biệt, nổi trội của văn hóa nông thôn. Đời sống văn hóa ở từng làng, trong mối liên hệ với nhau một cách hữu cơ, cũng được coi là đời sống văn hóa đặc thù ở nông thôn. Qua văn hóa làng, có thể thấy được cơ bản, thậm chí toàn bộ văn hóa nông thôn, nông nghiệp, nông dân.

Có nhiều định nghĩa văn hóa, nhưng UNESCO đã nhìn nhận một văn hóa với ý nghĩa rộng rãi và dễ áp dụng: Văn hóa là phức thể của các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm… khắc họa nên bản sắc một cộng đồng, gia đình, xóm, làng, vùng, miền, quốc gia… Như thế, văn hóa là một hệ thống giá trị không chỉ bao gồm tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật, văn chương mà còn quan trọng hơn, những di sản, lối sống, nếp sống, truyền thống, những quyền cơ bản của con người… trong một cộng đồng xã hội, trong đó có làng.

Vì thế, có thể coi văn hóa lànglà tổng thể những đặc trưng, diện mạo, giá trị về tinh thần và vật chất, khắc họa sắc thái, bản sắc của cộng đồng làng trong hành trình lịch sử. Và, có thể xuất phát từ văn hóa làng để nhận biết được làng Việt Nam, cũng như nhận biết văn hóa nông thôn Việt Nam .

Vậy, văn hóa làng có những đặc trưng, diện mạo, giá trị gì đáng chú ý?

Văn hóa làng là sự thích ứng, sản sinh, thấm đẫm văn hóa trong làng (thôn, xã) Việt Nam, một sự kết hợp nhuần nhuyễn địa lý - văn hóa, kinh tế - văn hóa, cơ sở xã hội - văn hóa… tạo nên đặc trưng, diện mạo, giá trị riêng mà các vùng khác, nơi khác (đô thị chẳng hạn) không có được. Xin nêu một số đặc trưngcủa làng và văn hóa làng, cơ sở để xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn, như sau.

Đó là ý thức cộng đồng làng,một tiền đề hình thành văn hóa cộng đồng làng, một ý thức riêng biệt xuất hiện trước cả ý thức cộng đồng dân tộc và có vai trò đặc biệt tích cực hình thành thể chế dân chủ làng xã trước kia. Ý thức cộng đồng làng, về cơ bản, thể hiện trên hầu khắp các lĩnh vực đời sống làng xã, như một hệ phẩm chất của làng và con người trong làng. Có thể nhận thấy rất rõ ý thức cộng đồng làng trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng kinh tế; trong chống thiên tai dịch họa bảo vệ làng xã, trong giữ gìn trật tự bảo vệ đời sống yên vui của làng, trong xây dựng văn hóa, đạo đức, lối sống ở cộng đồng, gia đình, cá nhân…

Đó là vị thế độc lập tương đối của làng,cơ chế tự quảnlàng xã nảy sinh từ ý thức cộng đồng làng chặt chẽ, khép kín. Trong suốt nhiều năm thành và tồn tại, chính quyền nhà nước phong kiến chỉ quản lý đến xã, còn trong thực tiễn, việc quản lý làng về cơ bản là do quyền của các thành viên trong làng, theo một trật tự quyền uy nhất định và theo những phương thức quản lý nhất định tùy đặc trưng từng làng. Quyền uy ấy, cơ chế thực hành tự quản ấy được thể hiện chủ yếu qua lệ làng (hương ước) với những quy định khá toàn diện bắt buộc, việc các làng trước đây tổ chức xây dựng hương ước là để có sơ sở thực hiện quyền và cơ chế tự quản trong làng. Mỗi làng một hương ước riêng, do người dân tham gia xây dựng và tự giác tuân thủ. Hương ước đáp ứng nhu cầu về tính tự quản, đồng thời cũng là cơ sở, cơ chế thực hiện mọi việc trong làng, thể hiện tính tự chủ và độc lập rất riêng của từng làng.

Đó là tính đặc thù, độc đáo, riêng biệt, khép kíncủa từng làng, dù nhìn vẻ ngoài ngỡ như làng nào cũng giống làng nào. Thậm chí, hai làng giáp nhau vị trí địa lý, những chẳng làng nào giống làng nào, bởi chính họ có những văn hóa làng khác nhau. Văn hóa riêng ấy, thể hiện qua phong tục, tập quán, nếp sống, đời sống tâm linh, đời sống nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng nói, cách ứng xử, nội dung hương ước, lệ tục…, tạo nên tính riêng biệt đáng tự hào của làng, nhưng không khỏi nuôi dưỡng tính khép kín, bảo thủ, một vấn đề có thể gây cản trở sự hội nhập trong bối cảnh mới.

Nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội cho rằng mối liên hệ một cách hữu cơ giữa các đặc trưng riêng biệt của làng, mà ở trên chúng tôi chỉ đơn cử ba đặc trưng, đã dần dần tạo cho làng một vị trí đặc biệt. Có thể coi làng là một chỉnh thể, một xã hội, tôn giáo tín ngưỡng, cấu trúc văn hóa, đời sống nghệ thuật…

Và từ xa xưa, chính văn hóa ở làng đã là động lực hình thành, phát triển làng theo đúng nhu cầu của cộng đồng cư dân làng và nhu cầu phát triển xã hội nông thôn trong từng thời kỳ. Rõ ràng, văn hóa gắn chặt với làng, có mối quan hệ qua lại gắn bó trực tiếp với làng để hình thành một văn hóa làng.Có hiểu được văn hóa làng mới hy vọng xây dựng được làng văn hóa.Hay đúng hơn, phải gọi là làng văn hóa tiêu biểutheo một hệ tiêu chí lựa chọn nào đó, bởi trong thực tiễn, làng nào chẳng gắn với văn hóa của mình, làng nào chẳng là làng văn hóa. Và có hiểu văn hóa làng mới thấy rằng từ lâu nay, văn hóa làng đã lặng thầm hình thành, phát triển và phát huy tác dụng của nó như một thực thể trong lịch sử xã hội, trong các cộng đồng, gia đình và cá nhân người Việt ở những góc độ và mức độ khác nhau.

Từ những đặc trưng đó, có thể thấy rằng văn hóa làng là một tổng thể những giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật dân gian và hiện đại, thể hiện rất rõ ý thức cộng đồng, ý thức tự quản và tính đặc thù, riêng biệt của làng so với phố và so với làng khác. Trong phạm vi khá khép kín của làng, các bình diện văn hóa tư tưởng, văn hóa xã hội, văn hóa nghệ thuật không tách hẳn ra tới mức cơ thể phân biệt được rõ ràng, mà hầu như lẫn vào nhau, gắn vào nhau trong một thực thể làng. Và đậm đặc chất, giàu có nhất vẫn là văn hóa dân gian phong phú và quyến rũ.

Nói đến nông thôn, nói đến làng, nhất là làng ở châu thổ Bắc Bộ, không thể không nhắc tới những mảnh hồn làng, những hiện tượng, sự kiện văn hóa ẩn náu trong và ngoài lũy tre làng. Nhiều thứ trong số đó đã gắn bó gần gũi với đời sống người nông dân, trở thành biểu trưng, biểu tượng mang lại giá trị văn hóa truyền thống làng. Đó là cây đa, bến nước, sân đình, chùa, đình, miếu; là con đê, cánh đồng, giếng nước, ao làng, lũy tre. Đó là những gia phả, tộc phả, hương ước, tộc ước, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; là lễ hội làng sôi động, phong phú. Đó còn là những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn học, âm nhạc, mỹ thuật dân gian; là cấu trúc địa lý – sinh thái làng xóm… Chưa kể những nét riêng của làng thuần nông, làng nghề thủ công, làng văn vật, làng tiến sĩ, làng cổ… Văn hóa làng hội tụ tiềm năng trong tất cả những hiện tượng, sự kiện của đời sống sinh hoạt trong và ngoài làng, rất cần phải được khám phá, tìm hiểu ở tất cả những nội dung đa dạng và đặc trưng ấy. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ở nông thôn, mà thực ra ở các làng, cần phải chú trọng trước hết những nội dung văn hóa ở làng, của làng; từ đó mới có thể tìm cách phối hợp hai chiều, vừa nâng tầm văn hóa không chuyên của làng, vừa đưa văn hóa chuyên nghiệp vào địa bàn làng một cách phù hợp nhất để cả hai cùng phối hợp được với nhau trong mục tiêu nâng cao dân trí nhưng tôn trọng văn hóa truyền thống làng.

Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, như bất cứ một sự kiện, hiện tượng hay thực thể văn hóa xã hội nào, văn hóa làng luôn hàm chứa hai mặt đối nghịch, mẫu thuẫn, nhưng không loại trừ nhau. Một mặt tích cực, xấu, cản trở sự tiến bộ cần hạn chế hoặc loại bỏ. Tóm lại, văn hóa làng có cả cái tốt, cái xấu, cái hay, cái dở, cái tích cực và cái tiêu cực, cái cần tôn vinh và cái cần chuyển đổi hoặc dẹp bỏ.

Mặt mạnh, mặt tích cực của văn hóa làng, từ xưa đến nay, chúng ta đã nhắc đến khá nhiều. Đó là ý thức cộng đồng, tinh thần tự quản và sự đoàn kết trong khai hoang, lập làng, làm thủy lợi, chống ngoại xâm, bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của làng. Đó là ý thức tạo lập và gìn giữ khối quan hệ cộng đồng tốt đẹp, đoàn kết, yêu thương, che chở, đùm bọc nhau trong tình làng nghĩa xóm. Đó là lòng tự hào về vốn liếng văn hóa của làng và sự đóng góp hết mình để bảo tồn và phát huy các hoạt động, các giá trị văn hóa làng trong phạm vi làng và những phạm vi rộng hơn…

Ở tầm vĩ mô, văn hóa làng còn góp phần mình vào phát triển không chỉ đời sống sinh hoạt của làng mà còn phát triển kinh tế xã hội, văn hóa của cả cộng đồng, vùng miền và đất nước. Thực tiễn đã cho thấy sức mạnh văn hóa liên làng, sự nhân lên văn hóa của nhiều làng sẽ tạo động lực lớn trong phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi cả nước. Trên cơ sở thực tiễn đó, không ít nhà nghiên cứu khoa học đã chứng minh và khẳng định rằng văn hóa làng giữ vai trò cơ sở của sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế xã hội ở làng nói riêng, ở nông thôn nói chung hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mặt yếu, mặt tiêu cực của văn hóa làng cũng đã được không ít người nêu rõ thông qua thực tiễn vận động và những tác động của nó trong đời sống của làng và phạm vi rộng hơn.

Tính cộng đồng, một mặt phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó, tình nghĩa giữa những người dân trong làng, giữa làng này với làng khác, giữa làng với ngoài làng; mặt khác cũng tạo nên tính tiểu nông, tự trị, cục bộ địa phương, thói dựa dẫm, ỷ lại, thiếu sáng tạo, thiếu tự chịu trách nhiệm.

Ý thức tự quản, sự độc lập tĩnh tại cố hữu và tính khép kín, tiềm ẩn của văn hóa làng, ở một phía khác, cũng cho thấy những cản trở nhất định cho việc hoạch định xây dựng văn hóa cơ sở theo một mô hình chung. Để phá bở được cái vỏ cố hữu này, công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn nói chung, ở làng nói riêng cần có được những hình thức phù hợp, thích ứng để có thể cấy văn hóa đương đại, hiện đại, chuyên nghiệp vào cấu trúc sẵn có của văn hóa làng.

Tóm lại, văn hóa làng thực chất là một dạng thức văn hóa cộng đồng – cộng đồng làng. Nó không phải là phép cộng đơn giản của các thành tố văn hóa (cảnh quan, môi trường, nghệ thuật, gia đình, xóm giềng, cá nhân…) trong làng mà là sự tổng hợp toàn bộ những giá trị, chuẩn mực văn hóa, đặc biệt là nếp sống, mà các thành viên trong cộng đồng làng xây dựng và tự giác tuân thủ. Nói một cách đơn giản, văn hóa làng chính là hương phong,là nếp làng, chỉ riêng làng ấy có.

Về những yếu tố cấu thành văn hóa nông thôn nói chung, văn hóa làng nói riêng, có thể tham khảo sự tìm hiểu và hoạch định của các chuyên gia nước ngoài khi nghiên cứu dự án phát triển (văn hóa, kinh tế xã hội) nông thôn Việt Nam . Theo nhóm chuyên gia này, ở nông thôn Việt Nam, và nhỏ hơn, ở làng Việt, có hai nhóm nhân tố mang tính văn hóa đáng chú ý: các loại nhân tố tĩnh, mang tính truyền thống, thường chậm thay đổi, trong đó có truyền thống, hệ thống giá trị, chuẩn mực, thước đo về đạo đức, tinh thần, cơ cấu tổ chức quyền lực, phong cách, lối sống, lối tư duy, phương thức sản xuất, phong tục tập quán, phân công lao động, thói quen ăn uống, sinh hoạt lễ hội, nghi thức, tín ngưỡng, ngôn ngữ…; các loại nhân tố động dễ thay đổi và có thể thay đổi nhanh, bao gồm nhu cầu vật chất và tinh thần, tri thức khoa học, tính sáng tạo và khả năng thích ứng chuyển giao công nghệ, trao đổi văn hóa…

Như vậy, về cơ bản, có thể nhận thấy văn hóa làng bao hàm một cách phong phú, đa dạng cả hai nhóm yếu tố, trong đó, nhóm các yếu tố tĩnh, chậm thay đổi có biểu hiện rõ rệt hơn, thực tiễn hơn so với nhóm động và có thể thay đổi nhanh.

Nói như vậy không có ý phê phán yếu tố tĩnh, đề cao yếu tố động mà chỉ để nhấn mạnh rằng: trong mối tương quan giữa hai nhóm yếu tố này, tùy vào từng đơn vị cơ sở, tùy vào từng làng cụ thể mà nhóm này trội hơn nhóm kia hay ngược lại. Và, vì văn hóa làng vừa bao hàm những yếu tố văn hóa chung của nông thôn, lại vừa tiềm ẩn những yếu tố riêng của từng làng cụ thể, nên trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở làng, rất cần thiết có những phương án, kế hoạch đảm bảo làm nổi bật được cả nét chung và nét riêng. Nghĩa là, cùng với việc xây dựng kinh tế, phát triển xã hội, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa,nêu gương người tốt, việc tốt, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa… như những yếu tố chung thì cần thiết phải chú trọng tới những nét riêng về địa lý, sinh thái, môi trường, cảnh quan, kiểu loại làng, bề dày văn hóa, tiềm năng con người… của từng làng, để những yếu tố chung đó có thể bắt rễ được vào đời sống sinh hoạt rất đặc thù của từng làng, liên làng.

Trên cơ sở thống nhất khái niệm về đời sống văn hóa cơ sở, về làng văn hóa, cũng như khẳng định vai trò văn hóa làng trong xây dựng văn hóa cơ sở, có thể thấy, về mặt bản chất, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở chính là xây dựng văn hóa làng, một thực thể, một thiết chế xã hội quan trọng, theo hướng đi hai chiều: một chiều đưa vào, áp dụng vào làng những mô hình, những phong trào xây dựng văn hóa mới với chuẩn mực và tiêu chí chung; chiều khác là kích thích, tác động, tạo điều kiện để thiết chế, di sản, tiềm năng văn hóa của làng có điều kiện nảy nở, bộc lộ, phát huy trên phạm vi rộng hơn. Sự kết hợp hai chiều xây dựng văn hóa cơ sở ở làng một cách nhuần nhị sẽ đem đến kết quả mong muốn: vừa bồi đắp, chọn lựa được những làng văn hóa tiêu biểu– những làng bao hàm được giá trị văn hóa cộng đồng cao theo chuẩn đánh giá chung; vừa xây dựng được cái cốt lõi hơn, văn hóa làng– với tư cách là văn hóa của cộng đồng làng với tất cả những gì phong phú, đa dạng, lưỡng diện của nó.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, cốt lõi của việc xây dựng văn hóa cơ sở ở nông thôn chính là xây dựng văn hóa làng (rồi văn hóa xã, huyện…). Muốn xây dựng văn hóa tam nông (nông thôn, nông nghiệp, nông dân) thì điều cốt yếu và quan trọng là phải xây dựng thành công văn hóa làng (và một bộ phận quan trọng của nó là làng văn hóa). Do đó, có thể coi văn hóa làng chính là nền tảng tiên quyết để xây dựng thành công văn hóa nông thôn trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.