Vấn đề môi trường cho xây dựng xã nông thôn mới
Tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch còn thấp
Nội dung đầu tiêncủa tiêu chí MT cần phải đạt được trong xây dựng xã NTM theo Quyết định 800 là “Tỷ lệ hộ được sử dụng NS hợp vệ sinh đạt từ 90%, trong đó tỷ lệ hộ sử dụng NS theo quy chuẩn quốc gia đạt từ 50% trở lên”. Hiện tại ở mỗi xã đạt tỷ lệ này khác nhau nhưng số liệu điều tra đã cho thấy 22 xã đều chưa đạt tiêu chí này (trừ xã Trung Hiếu-Vũng Liêm gần đạt). Trong khoảng thời gian ngắn 5 năm để đạt được tỷ lệ theo quy định thì cần có sự nỗ lực rất lớn mới khả thi. Vì thực tế đã cho thấy, Chương trình NS và vệ sinh MT nông thôn của tỉnh khởi xướng từ năm 1998 thực hiện theo Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII, Chương trình này hướng tới mục tiêu: Đến năm 2010 có 85% dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh, đạt tiêu chuẩn 60 lít/người/ngày, 70% gia đình và dân cư nông thôn sử dụng hố tiêu hợp vệ sinh; đến năm 2020 đạt được tất cả cư dân nông thôn sử dụng NS ở chuẩn 60 lít/người/ngày và sử dụng hố xí hợp vệ sinh, thực hiện tốt vệ sinh cá nhân và MT ở ấp, xã. Hàng năm chương trình này được đầu tư khoảng 100 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh và vốn chương trình mục tiêu quốc gia do trung ương đầu tư xây dựng các trạm cấp nước tập trung NS, kéo đường ống chính, đầu tư cho công tác truyền thông về NS và vệ sinh MTNT. Thế nhưng hơn 12 năm qua, khi điều tra, khảo sát, đánh giá lại thì tỷ lệ này số hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch hợp vệ sinh chỉ đạt 54,37% (khoảng 119.014 hộ). Trong đó tỷ lệ số dân NT sử dụng NS đáp ứng tiêu chuẩn về NS do Bộ Y tế ban hành theo QCVN 02/2009/QĐ-BYT là 28,9%. Ngoài nguyên nhân do việc đầu tư xây dựng các trạm cấp nước tập trung, xây lu bể xi măng chứa nước chưa đủ hoặc chưa đạt, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, truyền thông về NSMT NT, triển khai chính sách hỗ trợ chưa mang lại hiệu quả như mong đợi, còn một nguyên nhân mà ngành chức năng khó thực hiện đó là ý thức và tập quán sinh sống của hộ nông dân NT. Tập quán lâu đời sử dụng nước mặt từ sông, rạch, sử dụng nước ngầm không phải trả tiền và hình thái định cư theo tuyến, sống rải rác trong đồng của đại bộ phận dân cư NT như hiện nay thì rất khó cho đơn vị cấp nước sạch kéo đường ống dẫn NS tới hết hộ dân trong xã.
Một yếu tố nữa tác động đến việc sử dụng NS ở các xã xây dựng NTM là chất lượng nguồn nước mặt ngày càng suy giảm nghiêm trọng do MT nước đã và đang bị ô nhiễm khó kiểm soát vì sông, rạch chằng chịt, liên thông nhau. Để giải quyết vấn đề này, chính quyền các xã xây dựng NTM phải thực hiện 2 giải pháp. Một là đầu tư mới, nâng cấp, cải tạo trang bị công nghệ tiên tiến hơn trong xử lý nguồn nước, cấp nước đạt tiêu chuẩn. Hai là phải quản lý tốt các nguồn gây ô nhiễm như thực hiện quan trắc thường xuyên, lập các trạm, khu, cụm xử lý ô nhiễm và điều chỉnh các hoạt động gây ô nhiễm (như điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, tổ chức sắp xếp lại các hoạt động sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, giết mổ, nuôi trồng thủy sản, các hoạt động y tế, hoạt động sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, làng nghề ở nông thôn). Và tương lai ở vùng nhiễm mặn còn phải giải quyết nguồn nước nhiễm mặn. Cả hai giải pháp đều cần tăng chi phí đầu tư, tăng cường nhân lực quản lý và thời gian dài.
Ô nhiễm MT ở NT khó kiểm soát
Hiện tại các làng nghề truyền thống, các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong tỉnh nằm đan xen với dân cư, hộ gia đình. Có nhiều ngành nghề được đánh giá là nhạy cảm với MT như sản xuất gạch gốm, phân bón, nước chấm, kinh doanh xăng dầu, cơ sở giết mổ gia súc gia cầm, trang trại chăn nuôi… Trong thời gian qua, ngành chức năng và các cấp chính quyền trong tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong vận động, chuyển giao cho các cơ sở sản xuất công nghiệp các mô hình, công nghệ sản xuất “sạch hơn”. Tuy nhiên, số lượng cơ sở, doanh nghiệp áp dụng còn khá khiêm tốn, hiệu quả thấp. Trừ KCN Hòa phú và một số doanh nghiệp có đầu tư hệ thống xử lý chất thải đúng tiêu chuẩn, còn lại đa phần các cơ sở đều thải chất thải trực tiếp ra sông, rạch ra môi trường gây ô nhiễm MT khó kiểm soát. Do vậy để đạt được nội dung thứ nhì của tiêu chuẩn MT trong xây dựng xã NTM, đó là “các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về MT đạt từ 80% trở lên”, đòi hỏi các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải thực hiện nghiêm những cam kết trong hồ sơ MT hoặc bản đăng ký MT ban đầu. Cấp chính quyền xã NTM phải tăng cường hoạt động quản lý, bảo vệ MT
Một nội dung nữa của tiêu chí MT mà các xã xây dựng NTM phải đạt là “không có hoạt động gây suy giảm MT, chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định”. Theo nội dung tiêu chuẩn này, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, nạn đổ rác, xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn MT vào sông, rạch, việc sử dụng hóa chất, phân bón thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản ở các xã xây dựng NTM phải được khắc phục, chấm dứt. Nhưng thực tế, ở NT trong tỉnh hiện nay, tình trạng chất thải (nước thải, rác thải) vung vãi còn tùy tiện, khó kiểm soát. Nổi bật nhất là tình trạng xả rác thải sinh hoạt, đây là vấn đề nan giải không những đối với vùng NT mà ngay các xã vùng ven thành phố Vĩnh Long. Điều này có thể thấy do khâu dịch vụ MT (tổ chức thu gom, xử lý rác thải) chưa có hoặc chưa tốt, thiếu quan tâm hoặc đầu tư chưa đến nơi đến chốn.
Một trong những mục tiêu của xây dựng xã NTM là nâng cao mức sống và thu nhập của dân cư NT. Vấn đề ô nhiễm môi trường sẽ tất yếu phát sinh trong phát triển kinh tế ở đây. Đây là bài toán nan giải trong suốt quá trình xây dựng NTM mà chính quyền và nhân dân các xã cần chung tay giải quyết./.








