Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 08/10/2007 14:03 (GMT+7)

Vai trò quản lý tri thức ở các doanh nghiệp

Với các tổ chức khác nhau, nguồn tri thức và phương pháp quản lý tri thức cũng khác nhau, trong khi đó phần lớn tài liệu nói về KM lại đều chú trọng đến các tổ chức lớn, mang tính quốc tế, với cơ cấu quản lý kiểu phương Tây. ở đây sẽ đề cập đến KM ở các tổ chức nhỏ, không có chung hoàn cảnh, cấu trúc mà các lý thuyết KM đã xây dựng. Những tổ chức như vậy thường ít khi bổ nhiệm cán bộ chuyên trách việc quản lý tri thức, mà dựa vào các nhà tư vấn quản lý thông tin và tài liệu để phát triển công tác quản lý tri thức một cách hiệu quả.

Các chuyên gia KM cho rằng tri thức là một nguồn lực quan trọng nhất của tổ chức, một nguồn lực duy nhất mà các đối thủ không dễ dàng bắt chước được, bởi vậy nó đem lại ưu thế cạnh tranh cho tổ chức. Thực tiễn KM hiện nay chú trọng đến việc tạo ra tri thức mới và vận dụng kịp thời nguồn tri thức của tổ chức để duy trì ưu thế chiến lược. Nó giả định rằng ở tổ chức đã tồn tại các hệ thống hỗ trợ việc tạo ra tri thức, rằng các tri thức liên quan từ các nguồn nội bộ và bên ngoài đã được ghi chép lại và lập chỉ số để giúp truy cập và sử dụng dễ dàng. Các tổ chức phải sẵn sàng bỏ đi những tri thức đã lạc hậu.

Việc quản lý công tác thư viện và hồ sơ, hoặc quản lý thông tin có quan hệ chủ yếu với những biểu hiện vật chất của tri thức ở dưới dạng tài liệu, cơ sở dữ liệu (CSDL), sách, tạp chí và các vật ghi khác. Trong khi đó, quản lý tri thức quan tâm đến tri thức của từng cá nhân và không được ghi chép, hoặc tri thức ngầm của mỗi người, cũng như tri thức có thể quan sát, kể ra, hoặc tri thức được bộc lộ, mà không phải lúc nào cũng được tổ chức thành hệ thống.

Về vấn đề này, Nonaka và Takeuchi (1998) đã nêu ra sự phân biệt giữa tri thức và thông tin. Theo đó, tri thức là một thứ vô hình, trú ngụ ở một chỗ nào đó, có thể là tinh thần hoặc vật chất và có thể tách ra, làm cho nó trở thành hữu hình, có khả năng chuyển giao được nhờ các phương tiện (tài liệu, biên bản, sách, tạp chí, quy trình, sơ đồ, phim ảnh, CSDL v.v...). Khi đó, tri thức sẽ trở thành thông tin. Theo định nghĩa này, các cán bộ thông tin chủ yếu có quan hệ với thông tin (những bản ghi chép về tri thức), chứ không phải với bản thân tri thức, còn các nhà quản lý và điều hành của tổ chức thì lại có quan hệ với tri thức.

Việc quản lý tri thức hiện nay, được đề cập rất nhiều trong công trình của Nonaka và Takeuchi (1995), trong đó đều nhận định về sự khác nhau giữa thông tin và tri thức đã làm nảy sinh một số vấn đề then chốt. Chúng chủ yếu liên quan tới quá trình mọi người tạo ra và chia sẻ tri thức, đem lại những khái niệm như: Một ý tưởng sẽ có giá trị và hiệu quả chỉ khi nào mọi người có thể biết được điều họ biết; hay ý thức được rằng, khi ai đó rời khỏi tổ chức thì tổ chức đó để mất đi những tri thức ẩn chứa của người đó; hoặc sự cần thiết của sự chia sẻ thông tin và tri thức giữa các cán bộ công nhân viên trong tổ chức nếu muốn tạo ra tri thức mới.

Một điều quan trọng nữa trong công tác KM đối với tổ chức lớn, đó là nguyện vọng, kỹ năng và công cụ để chia sẻ kiến thức. Prusak, Giám đốc Viện Quản lý tri thức của hãng IBM, nhận xét rằng: "Xét về bản chất mọi người không chia sẻ kiến thức với nhau. Vì vậy phải khéo léo tìm cách để họ biết được những điều họ biết, chia sẻ những điều họ biết và tiếp thu kiến thức của người khác". Hãng Lotus ước tính rằng 70% chi phí cho dự án KM của hãng BP là dùng để huấn luyện cán bộ công nhân viên để biết chia sẻ kiến thức, cũng như phục vụ cho việc đào tạo họ.

Ngay cả khi các thành viên có tri thức sẵn lòng chia sẻ với mọi người, thì cũng không thể biến ngay tri thức ngầm của họ thành thứ có thể lưu trữ ở CSDL. Điều này càng khó hơn khi các cán bộ được được giao nhiệm vụ ghi chép lại tri thức là những nhà tư vấn, nhà công nghệ hoặc cán bộ thông tin vốn không quen thuộc với bản thân tri thức đó, hoặc lĩnh vực áp dụng của nó (Sutton, 2000). Do vậy, hoàn cảnh để chia sẻ bị mất đi và tri thức sẽ vẫn ở dạng thông tin.

Với những vướng mắc như vậy, phần lớn những tài liệu gần đây về KM đều chú trọng đến việc ghi chép, truy cập và chia sẻ loại tri thức vô hình, chứ không chú ý lắm đến các phương pháp quản lý những thông tin và tri thức đã được ghi chép. McShane và Glinow (1999) đã đề xuất một số phương pháp để tiếp nhận, chia sẻ và sử dụng tri thức, tuy nhiên chúng không được phản ánh vào trong thực tiễn KM. Tri thức là một thứ khó nắm bắt và tổ chức vì nó dựa vào kinh nghiệm và đặc thù với mỗi hoàn cảnh một. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên là hầu hết các nỗ lực để nắm bắt và tổ chức tri thức đều sử dụng các phương pháp mà sẽ dùng máy tính để lưu trữ tri thức. Do đó, phần lớn hệ thống mà được mệnh danh là quản lý tri thức hiện nay đã đều nhắm vào các biện pháp để ghi, đánh chỉ số và phân phối tốt hơn các tư liệu và nguồn tin hiện có của tổ chức. Quan niệm cho rằng cần phải có công nghệ máy tính để quản lý tri thức đã chiếm lĩnh toàn bộ công việc này. Theo Gartner (2000), việc đó đã hạ thấp công tác KM thành ra một thứ mốt nhất thời về công nghệ thông tin.

Những hướng dẫn về công tác quản lý tri thức

Một số chuyên gia đã đề ra những điều hướng dẫn để giúp thực hiện thành công KM, theo đó, công nghệ được đặt đúng vị trí của nó là để hỗ trợ, chứ không phải là kết quả. Nếu như giá trị và tính độc đáo của tổ chức được bắt nguồn từ những kiến thức độc đáo của mình thì cần phải tạo ra tri thức mới và chia sẻ tri thức hiện có. Nhưng tri thức bao giờ cũng đặc thù đối với từng hoàn cảnh và nhiều tri thức do các cá nhân nắm giữ nên không chia sẻ được. Bởi vậy các tổ chức cần có các quá trình và hệ thống để thúc đẩy việc tiếp thu và chia sẻ tri thức cũng như để sáng tạo ra tri thức. Dựa trên nhu cầu đó đã có những hướng dẫn về KM được đề ra, nhưng đối tượng là các tổ chức lớn, mang tính quốc tế. Tuy nhiên, do các tổ chức nhỏ có quy mô và phạm vi hoạt động khác, nên có thể có nhu cầu khác đối với các quá trình và hệ thống KM. Bởi vậy, trước hết ta sẽ điểm qua những hướng dẫn có giá trị, trên cơ sở đó ta sẽ xem xét đối với công tác KM của tổ chức nhỏ.

Davenport và Prusak (1998) cho rằng có thể thực hiện được KM bằng cách sử dụng hữu hiệu các nguồn lực hiện có ở tổ chức. Một nét độc đáo của công trình này là sự thừa nhận rằng nhiều kiến thức được tạo ra là do ý thức được sự cần thiết hoặc yêu cầu phải có kiến thức. Họ thừa nhận vai trò của lực lượng cán bộ công nhân viên hiện có và những người mới đến đối với việc tạo ra tri thức, thừa nhận giá trị của những hệ thống như việc truyền nghề, tự thuật đối với việc biến tri thức ẩn thành tri thức hiện và có khả năng chia sẻ được. Họ nhận định rằng việc chuyển giao tri thức thành công hay không là phụ thuộc vào môi trường tổ chức có khuyến khích mọi người chia sẻ kiến thức với nhau hay không, kể cả sự tin tưởng lẫn nhau của các thành viên trong tổ chức. Họ cũng vạch ra giá trị của các "kho tri thức" ở tổ chức mà cho phép dễ dàng lưu trữ và truy cập các biểu ghi tri thức ở bên ngoài và nội bộ, và công nghệ thông tin có thể đem lại khả năng có được các công nghệ mới liên quan đến tri thức.

Những nhận định của Davenport và Prusak đã được phản ánh ở những điều hướng dẫn để thực hiện hiệu quả KM do Tập đoàn Gartner đưa ra. Theo Gartner, môi trường tổ chức là có vai trò quan trọng nhất. Nếu tổ chức không tạo thuận lợi để mọi người giao thiệp với nhau thật thoải mái, không tìm ra những con đường ngắn nhất giữa người cung cấp tri thức và người cần tri thức, thì KM sẽ không thành công. Một tổ chức, nếu được xây dựng theo những thứ bậc chặt chẽ thì sẽ gây ra trở ngại, khó khăn cho việc thực hiện KM. Gartner (2000) ước tính rằng 50% số dự án KM thất bại là do các tổ chức đã không quan tâm thích đáng đến việc thay đổi môi trường tổ chức.

Tương tự, Marshall (2000) nhận định rằng nhiệm vụ quan trọng nhất đối với KM của tổ chức là làm sao phải duy trì được đội ngũ nhân lực hiện có. Ông nói: "Tri thức của đội ngũ cán bộ công nhân viên có vai trò then chốt. Cần tập trung nắm bắt toàn bộ tri thức để sử dụng cho công việc hàng ngày một cách hiệu quả và giúp tổ chức lớn mạnh. Việc nắm bắt được tri thức của mọi người và quản lý nguồn tri thức đó cần phải trở thành một nét trong đời sống văn hoá của tổ chức". Marshall cũng khuyến nghị nên ứng dụng công nghệ thông tin (IT): "Có thể nắm bắt được tri thức nhờ những phương tiện đơn giản và không đắt lắm, chẳng hạn như một chương trình phần mềm tiện lợi cho người sử dụng mà có sẵn trong máy tính nội bộ của tổ chức". Tuy nhiên, ông lưu ý rằng việc sử dụng những hệ thống như thế cần phải gắn với môi trường của tổ chức và được tiến hành thường xuyên giống như một phần công việc hàng ngày thì mới thành công. Ông đề xuất nên có những biện pháp khuyến khích tài chính để thúc đẩy mọi người chia sẻ kiến thức và nên bổ nhiệm cán bộ chuyên trách việc quản trị hệ thống và đảm bảo những kiến thức là mới nhất.

Vấn đề Quản lý tri thức ở những tổ chức nhỏ

Trong khi những tài liệu hiện nay đều cung cấp kiến thức về các chiến lược KM ở các tổ chức lớn thì hầu như chưa có tài liệu nào đề cập đến công tác này ở các tổ chức nhỏ. Ngoài sự khác nhau về số lượng nhân lực, những tổ chức nhỏ còn có xu hướng chú trọng vào lĩnh vực hoặc địa phương, có phạm vi hoạt động hẹp, nguồn tài chính và nhân lực hạn hẹp. Các nhà quản lý tổ chức thường chỉ chú trọng vào công việc cốt lõi mà ít quan tâm đến các mặt hoạt động khác. Phần lớn các tổ chức đều không có khả năng (hoặc không sẵn lòng) chi cho các dịch vụ tư vấn đắt tiền. ít hãng bổ nhiệm cán bộ chuyên trách thông tin. Nhiều hãng có thể còn chưa ý thức được tiềm năng của KM, vì lĩnh vực này vẫn nhằm vào các doanh nghiệp lớn, có nguồn tài chính lớn để chi cho dịch vụ tư vấn và công nghệ.

Nếu như những kiến thức ngầm vẫn là loại tri thức quan trọng nhất đem lại thành công cho tổ chức, thì các tổ chức nhỏ lại càng cần đến những tri thức như vậy. Họ cần đến những tri thức do những cán bộ mới thuyên chuyển đến, các nhà tư vấn, các cán bộ hợp đồng, các khách hàng mang lại cho tổ chức. Ngoài ra, họ cũng rất dễ bị mất cán bộ vì sức hấp dẫn và chế độ ưu đãi hơn của các nơi khác.

Nguồn: Bản tin Khoa học và Công nghệ Đồng Nai, 09/2003

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.