Vai trò "Già làng" trong công tác xây dựng khối đoàn kết dân tộc tại tỉnh Đắk Lắk
Già làng là người có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, giàu kinh nghiệm sống, hoạt bát hoặc là người có công lập làng được suy tôn hoặc hậu duệ của người ấy. Dần về sau, cùng các yếu tố trên, yếu tố của cái có ý nghĩa đáng kể, trong nhiều trường hợp già làng cũng thường khá giả về kinh tế.
Già làng thường là người cao tuổi trong làng, trong dòng họ, trong tộc người ở làng đó. Già làng sống gương mẫu, có công hình thành, phát triển dân cư, am hiểu việc làng, phong tục tập quán, nghi lễ của dòng họ và dân tộc mình hoặc các dân tộc cùng sống trong làng; có khả năng và kinh nghiệm xử lý hài hòa, hiệu quả việc làng, quan hệ dòng họ và các dân tộc; được đa số dân cư trong làng kính trọng suy tôn một cách tự nhiên, tự nguyện, bình đẳng…
Già làng tiêu biểu là những già làng nổi trội, hiểu biết sâu rộng, nói dân nghe, làm dân tin, uy tín như là "thủ lĩnh" trong làng, trong dòng họ và trong tộc người đó, luôn tâm huyết, gương mẫu, có công lao và đáng làm gương cho con cháu học tập.
Già làng không chỉ có nam mà có cả nữ. Mỗi làng chỉ có một già làng, song có nơi có "Hội đồng già làng" (ba, bốn già làng), nhưng vẫn có một già làng là người đứng đầu, do các già làng tiến cử, điều hành công việc chung. Có già làng được dòng họ cử làm trưởng họ; được cộng đồng tộc người cử làm trưởng tộc; được dân làng bầu làm trưởng buôn. Song trưởng buôn tuổi trẻ không thể là già làng được. Có già làng tiêu biểu toàn diện, có già làng tiêu biểu từng mặt nhưng đều được coi trọng và động viên đúng mức.
Trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay, vai trò của già làng rất quan trọng.
Trước hết, vai trò của già làng thể hiện rõ nét nhất ở sự hiểu biết và nêu gương, trở thành hạt nhân, trung tâm đoàn kết trong cộng đồng làng. Trên cương vị của mình, già làng quán xuyến đời sống mọi mặt trong cộng đồng: xem xét việc giữ gìn địa giới làng, tổ chức làm hoặc tu bổ các công trình chung, chủ trì các lễ cúng và hội hè tập thể, hướng dẫn mùa vụ sản xuất và chỉ đạo việc làm ăn sinh sống hàng năm, cố vấn cho các cuộc hôn nhân thực hiện đúng tập tục, làm trọng tài dàn xếp các vụ tranh chấp, xích mích và xét xử những người vi phạm tập tục, quyết định việc chuyển làng, việc bố phòng làng, thay mặt dân làng giao tiếp bên ngoài v.v… Có thể nói già làng chi phối cuộc sống của làng mình, cả trong sinh hoạt xã hội và sinh hoạt tinh thần, cả sinh hoạt cộng đồng lẫn đời sống trong từng nhà, từng gia đình; toàn thể dân làng gắn bó quanh già làng, tin theo già làng. Già làng phải hết mình làm tròn bổn phận của người đứng đầu một làng, làm sao cho làng an khang, thịnh vượng, đồng thời phải chịu trách nhiệm về những tình trạng xấu trong làng như: dịch bệnh nhiều, mùa màng thất bát, lắm thiên tai .v.v… Trong xã hội người dân tộc Đắk Lắk nắm giữ quyền lực, nhưng không độc đoán, đồng thực hiện ý nguyện của dân làng, cái quyền lực kia chưa hẳn là quyền lực cá nhân nhưng già làng vẫn là hạt nhân, trung tâm đoàn kết của làng.
Hai là, bằng khả năng, kinh nghiệm, già làng xử lý hài hòa việc làng việc nước, luật tục và luật pháp, việc dòng họ và tộc người, biết thuyết phục và động viên, nói dân nghe, làm dân tin, dân phục và dân theo, trở thành trụ cột đoàn kết của làng. Luật tục thực chất là những quy định, quy ước của từng dân tộc thiểu số để giáo dục, điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng. Các quy định đó đã được bà con dân tộc thiểu số thảo luận đi đến quyết nghị thống nhất trở thành ý chí chung của cộng đồng. Luật tục và luật pháp có điểm tương đồng giống nhau là điều chỉnh các hành vi của con người, công dân nhằm đạt tới những chuẩn mực, hoàn thiện nhân cách con người vì sự hướng thiện, tôn trọng lẽ phải và sự công bằng. Song luật tục mang tính ước lệ, nội bộ của từng cộng đồng dân tộc thiểu số, còn luật pháp là thể hiện ý chí chung của toàn xã hội, mang tính bắt buộc mọi công dân phải tuân theo. Nếu đồng bào dân tộc thiểu số có ý thức chấp hành tốt luật tục là cơ sở để chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước. Hai vấn đề này liên quan chặt chẽ, tạo tiền đề cho nhau.
Nhờ các quy định của luật tục được luật hóa nên các già làng điều chỉnh, xử lý những hành vi của bà con liên quan đến luật tục, đảm bảo tính giáo dục răn đe và đảm bảo khách quan, công bằng, kịp thời. Cần đánh giá khách quan rằng, luật tục góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội dân sự trong các buôn làng theo hướng ổn định, đi vào nền nếp, tăng tính cố kết của cộng đồng, góp phần nhắc nhở mọi người làm việc thiện, không làm tổn hại lợi ích của cộng đồng. Trước yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân phải sống và làm việc theo luật pháp, đặt ra cho già làng thêm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, chấp hành pháp luật cho con em, công dân người dân tộc thiểu số Đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ chấp hành tốt luật tục mà còn phải có ý thức chấp hành tốt luật pháp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi già làng phải được cung cấp các tài liệu hướng dẫn thực hiện pháp luật, được bồi dưỡng tập huấn kiến thức luật pháp để hướng dẫn cho đồng bào nâng cao nhận thức, chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước.
Ba là, già làng luôn là hạt nhân, phối hợp chặt chẽ với hệ thống chính trị ở cơ sở vận động nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Già làng có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa. Nói đến bản sắc là nói đến tính độc lập, cá tính, ít pha trộn, ít thay đổi. Song sự giao lưu, mở cửa hội nhập đã làm cho những yếu tố của bản sắc văn hóa được thẩm thấu, "cộng sinh" làm phong phú giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc Đắk Lắk. Với vốn sống và kinh nghiệm, các già làng có khả năng nhận xét, thẩm định những yếu tố tích cực, tiên tiến, gạn đục khơi trong để lọc bỏ những độc tố phản văn hóa, không hợp thời, trái với tập quán sinh hoạt, nhu cầu chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số.
Bốn là, già làng cùng với Đảng, chính quyền, đoàn thể xây dựng khối đoàn kết, chống lại các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch; tăng cường dân chủ, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chống âm mưu "diễn biến hòa bình" của địch. Vai trò của già làng có tác động quan trọng trong nhiều mặt của cuộc sống, góp phần ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế - văn hóa. Có một số việc làng, việc nước, việc dòng họ, tộc người nếu không có già làng làm thì không ai làm thay được. Họ chính là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với dân, làm cho công việc giải quyết thấu tình đạt lý.








