Vạc đồng thời chúa Nguyễn
Căn cứ vào sử sách, từ năm 1631 đến năm 1684, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1631 - 1635) và chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) thì phủ chúa đặt tại Phước Yên (1626 - 1636) và Kim Long (1636 - 1687), chứ chưa chuyển về Phú Xuân. Tức là 11 chiếc vạc đồng này đã xuất hiện vào thời gian này. Tuy nhiên, bấy giờ chưa xác định được đặt chỗ nào. Hiện nay, 11 chiếc này có đến 7 chiếc đặt tại hoàng cung; 3 chiếc đặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, một chiếc đặt tại lăng Đồng Khánh.
Tất cả những chiếc vạc có kích thước to lớn, từ vài trăm đến vài ngàn cân, theo giả thiết, tác giả của những chiếc vạc này chính là do Cruz 1 - người Bồ Đào Nha sống tại Phường Đúc - Huế, lấy vợ người Việt Nam và là người được xem là sáng tạo nên ngành đúc nổi tiếng. Ông là người giúp chúa Nguyễn đúc vũ khí và vạc đồng để tỏ rõ uy quyền của dòng họ Nguyễn.
Trừ chiếc làm năm 1659, 10 chiếc làm sau có kiểu dáng tương tự nhau và gồm loại 4 quai và loại có 8 quai. Loại vạc 4 quai gồm có 6 chiếc, trong đó có 2 chiếc đúc vào năm 1659, các chiếc còn lại vào các năm 1660, 1662, 1667 và 1673. Với loại 4 quai thì quai được đặt gần trên miệng và cao vượt miệng, xoắn hình dây thừng. Phần thân vạc chia thành nhiều ô và được trang trí khác nhau hoàn toàn; tuy nhiên vạc nào chung cặp thì trang trí hoàn toàn giống nhau.
Loại vạc 8 quai gồm có 4 chiếc đúc vào các năm 1670, 1672 (2 chiếc) và 1684. Đặc điểm chung của loại vạc này là 8 quai được đặt dưới miệng vạc một đoạn và cao không quá miệng vạc. Các chiếc quai kiểu này đều tạo hình đầu rồng có cổ vươn ra từ thân vạc, trông khá sinh động. Phần thân vạc không chia thành lớp hay ô hình học để trang trí như loại vạc 4 quai, mà chỉ trang trí phần trên, phía gần quai vạc. Môtíp trang trí cũng khác kiểu vạc 4 quai rất nhiều. Nhưng cũng như loại vạc 4 quai, những chiếc cùng một đôi thì có môtíp trang trí gần tương tự nhau.
Tất cả 11 chiếc vạc trên đều không có chân đúc liền thân. Hiện nay, trừ 3 chiếc vạc đang đặt trước điện Long Ân được kê trên 3 bộ chân (3 chiếc kiểu chân kiềng) bằng gang được tạo dáng khá đẹp và hài hòa với phần thân; các chiếc vạc còn lại đều được đặt trên các chân bằng đá Thanh khá mộc mạc. Có lẽ các bộ chân này đều được làm lại trong thời Nguyễn.
Chiếc vạc thứ nhất được đúc năm 1631, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hiện đang được đặt ngay trước hiên điện Long An (Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế). Đây là một chiếc vạc có hình dáng rất lạ, tương tự một chiếc nồi kích thước lớn, cổ thắt bụng phình to, trên cổ có 4 quai được tạo dáng khá đẹp. Trên thân vạc có đề niên đại “Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân”, tức năm 1631. Trọng lượng vạc là 560 cân. Văn tự khắc trên vạc: “Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân nguyệt cát nhật tạo. Trọng ngũ bách lục thập nhất cân”.
Chiếc thứ hai đúc năm 1659, hiện được đặt phía trước điện Kiến Trung, bên trong Tử Cấm Thành Huế. Vạc có 4 quai. Trên miệng vạc có ghi rõ năm đúc là Thịnh Đức thứ 7 và trọng lượng chiếc vạc là 2.154 cân (khoảng 1.378). Trên miệng đỉnh có khắc dòng chữ “Nhất song” (nghĩa là một đôi) nhưng hiện còn chỉ 1 chiếc.
Sau vụ thất thủ kinh đô, tháng 7 - 1885, quân Pháp đã đưa chiếc vạc này về đặt trước khu Nhượng địa (tức Mang Cá Lớn). Người Pháp cũng có ý định đưa chiếc vạc này qua tham dự Hội chợ triển lãm Marseille năm 1906, nhưng ý định này bất thành. Văn tự khắc trên vạc: “Thịnh Đức thất niên tạo đỉnh. Đồng nhị thiên nhất bách ngũ thập tứ cân”.
Vạc thứ ba cũng được đúc vào năm 1659, nhưng không đề niên hiệu vua Lê mà đề niên đại theo can chi - “Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh”, trọng lượng của vạc chỉ là 560 cân, nhưng nó lại có cùng kiểu dáng và hình thức trang trí với chiếc vạc đặt trước điện Kiến Trung. Cùng niên đại và cùng hình dáng, kiểu thức trang trì. Vạc có 4 quai, trên miệng chiếc vạc thứ 2 này còn khắc 3 chữ “Nội phủ tướng”. Văn tự khắc trên vạc: “Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh. Nội phủ tướng. Đồng ngũ bách lục thập cân”.
Hai chiếc thứ tư và thứ năm hiện đang được đặt trước sân điện Cần Chánh, bên trong Tử Cấm Thành. 2 chiếc này có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong các vạc thời chúa Nguyễn. Chiếc thứ nhất đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ, trọng lượng 2.482 cân; chiếc thứ hai đúc năm 1662 (Thịnh Đức thứ 10), trọng lượng 2.425 cân; cả hai đều có đường kính miệng trên 2,2m, cao trên 1m. Cả hai đều có hình dáng và kiểu thức trang trí rất giống nhau, có 4 quai, trên miệng vạc đều khắc 2 chứ Hán “Nhất song” (một đôi). Văn tự khắc trên vạc: “Thịnh Đức bát niên nhị nguyệt tạo đỉnh. Đồng nhị thiên tứ bách bát thập nhị cân. Thịnh Đức thập niên tạo đỉnh. Đồng nhị thiên tứ bách nhị thập ngũ cân”.
Chiếc vạc thứ sáu đúc vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), hiện đặt ở phía trước, bên phải Duyệt Thị đường, nặng 938 cân. Văn tự khắc trên vạc: “Cảnh Trị bát niên bát nguyệt tạo chú. Đồng cửu bách tam thập bát cân”.
Chiếc thứ bảy là chiếc cùng đôi với chiếc vạc đặt ở Duyệt Thị đường và nó được đúc sau đó 1 năm (1671), hiện được đặt ở góc sân phía đông điện Thái Hòa. Chiếc vạc còn lại nặng 896 cân, hình thức trang trí gần giống như chiếc kia. Văn tự khắc trên vạc: “Cảnh trị thập niên lục nguyệt tạo chú. Đồng bát bách cửu thập lục cân”. Một bên có dòng chữ “Chính nội phủ”.
Đôi vạc thứ tám và thứ chín dễ nhận biết vì từ hình dáng đến kích thước đều tương tự nhau, tuy nhiên, niên đại đúc của chúng lại lệch nhau đến 13 năm. Đó là hai chiếc vạc đặt trước sân điện Càn Thành. Chiếc bên trái (nhìn từ trong ra) đúc năm Chính Hòa thứ 5 (1684), nặng 1.395 cân; chiếc bên phải đúc năm Cảnh Trị thứ 10 (1671), nặng 1.390 cân. Cũng như hai chiếc vạc đặt trước sân điện Cần Chánh, hai chiếc vạc này có lẽ đã được đặt tại đây từ rất sớm. Văn tự khắc trên vạc: “Cảnh Trị thập niên chính nguyệt tạo chú. Đồng nhất thiên tam bách cửu thập cân. Chính Hòa ngũ niên lục nguyệt tạo chú. Đồng nhất thiên tam bách cửu thập ngũ cân”.
Chiếc thứ mười đặt trong khuôn viên phần tẩm điện lăng Đồng Khánh, phía đầu hồi nhà Hữu Vu (của điện Ngưng Hy). Vạc loại 4 quai, đúc năm Dương Đức thứ 2 (1673), nặng 1.013. Tuy trên miệng vạc có đề 2 chữ Hán “Nhị song” (tức 2 đôi) nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm ra loại vạc cùng cặp. Văn tự khắc trên vạc: “Dương Đức nhin nhiên lục nguyệt tạo đỉnh. Đồng nhất thiên tam thập cân”.
Chiếc cuối cùng đúc dưới thời chúa Nguyễn hiện đặt phía trước hiên, bên trái điện Long Ân, được đúc vào năm Đinh Tỵ (1667). Chiếc vạc này nặng 560 cân, có 4 quai, trên miệng có đề “Nhất song” nhưng chưa tìm ra chiếc cùng đôi với nó. Điểm đáng chú ý ở chiếc vạc này là trên miệng vạc có khắc 3 chữ “Tiền chính cung” tức nguyên xưa nó được đặt trước cung điện chính của phủ chúa. Văn tự khắc trên vạc: “Đinh Tỵ niên tứ nguyệt sơ lục nhật tạo đỉnh. Đồng ngũ bách lục thập cân”.
11 cái vạc đồng thời các chúa Nguyễn đã phản ánh thời kỳ huy hoàng của ngành đúc đồng Huế; nó có nhiều giá trị lịch sử, cũng như biểu hiện trình độ cao của những người thợ đúc đồng ở Cố đô hơn 350 năm trước. <
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thanh Hải, 320 năm Phú Xuân Huế, nghề truyền thống bản sắc và phát triển, 2007.
2. L. Sogny, Những chiếc vạc đồng tại hoàng cung, BAVH. (Những người bạn cố đô Huế,tập VIII, Nxb. Thuận Hóa, 2001.








