Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 20/10/2011 22:16 (GMT+7)

Vạc đồng thời chúa Nguyễn

Căn cứ vào sử sách, từ năm 1631 đến năm 1684, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1631 - 1635) và chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) thì phủ chúa đặt tại Phước Yên (1626 - 1636) và Kim Long (1636 - 1687), chứ chưa chuyển về Phú Xuân. Tức là 11 chiếc vạc đồng này đã xuất hiện vào thời gian này. Tuy nhiên, bấy giờ chưa xác định được đặt chỗ nào. Hiện nay, 11 chiếc này có đến 7 chiếc đặt tại hoàng cung; 3 chiếc đặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, một chiếc đặt tại lăng Đồng Khánh.

Tất cả những chiếc vạc có kích thước to lớn, từ vài trăm đến vài ngàn cân, theo giả thiết, tác giả của những chiếc vạc này chính là do Cruz 1 - người Bồ Đào Nha sống tại Phường Đúc - Huế, lấy vợ người Việt Nam và là người được xem là sáng tạo nên ngành đúc nổi tiếng. Ông là người giúp chúa Nguyễn đúc vũ khí và vạc đồng để tỏ rõ uy quyền của dòng họ Nguyễn.

Trừ chiếc làm năm 1659, 10 chiếc làm sau có kiểu dáng tương tự nhau và gồm loại 4 quai và loại có 8 quai. Loại vạc 4 quai gồm có 6 chiếc, trong đó có 2 chiếc đúc vào năm 1659, các chiếc còn lại vào các năm 1660, 1662, 1667 và 1673. Với loại 4 quai thì quai được đặt gần trên miệng và cao vượt miệng, xoắn hình dây thừng. Phần thân vạc chia thành nhiều ô và được trang trí khác nhau hoàn toàn; tuy nhiên vạc nào chung cặp thì trang trí hoàn toàn giống nhau.

Loại vạc 8 quai gồm có 4 chiếc đúc vào các năm 1670, 1672 (2 chiếc) và 1684. Đặc điểm chung của loại vạc này là 8 quai được đặt dưới miệng vạc một đoạn và cao không quá miệng vạc. Các chiếc quai kiểu này đều tạo hình đầu rồng có cổ vươn ra từ thân vạc, trông khá sinh động. Phần thân vạc không chia thành lớp hay ô hình học để trang trí như loại vạc 4 quai, mà chỉ trang trí phần trên, phía gần quai vạc. Môtíp trang trí cũng khác kiểu vạc 4 quai rất nhiều. Nhưng cũng như loại vạc 4 quai, những chiếc cùng một đôi thì có môtíp trang trí gần tương tự nhau.

Tất cả 11 chiếc vạc trên đều không có chân đúc liền thân. Hiện nay, trừ 3 chiếc vạc đang đặt trước điện Long Ân được kê trên 3 bộ chân (3 chiếc kiểu chân kiềng) bằng gang được tạo dáng khá đẹp và hài hòa với phần thân; các chiếc vạc còn lại đều được đặt trên các chân bằng đá Thanh khá mộc mạc. Có lẽ các bộ chân này đều được làm lại trong thời Nguyễn.

Chiếc vạc thứ nhất được đúc năm 1631, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hiện đang được đặt ngay trước hiên điện Long An (Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế). Đây là một chiếc vạc có hình dáng rất lạ, tương tự một chiếc nồi kích thước lớn, cổ thắt bụng phình to, trên cổ có 4 quai được tạo dáng khá đẹp. Trên thân vạc có đề niên đại “Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân”, tức năm 1631. Trọng lượng vạc là 560 cân. Văn tự khắc trên vạc: “Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân nguyệt cát nhật tạo. Trọng ngũ bách lục thập nhất cân”.

Chiếc thứ hai đúc năm 1659, hiện được đặt phía trước điện Kiến Trung, bên trong Tử Cấm Thành Huế. Vạc có 4 quai. Trên miệng vạc có ghi rõ năm đúc là Thịnh Đức thứ 7 và trọng lượng chiếc vạc là 2.154 cân (khoảng 1.378). Trên miệng đỉnh có khắc dòng chữ “Nhất song” (nghĩa là một đôi) nhưng hiện còn chỉ 1 chiếc.

Sau vụ thất thủ kinh đô, tháng 7 - 1885, quân Pháp đã đưa chiếc vạc này về đặt trước khu Nhượng địa (tức Mang Cá Lớn). Người Pháp cũng có ý định đưa chiếc vạc này qua tham dự Hội chợ triển lãm Marseille năm 1906, nhưng ý định này bất thành. Văn tự khắc trên vạc: “Thịnh Đức thất niên tạo đỉnh. Đồng nhị thiên nhất bách ngũ thập tứ cân”.

Vạc thứ ba cũng được đúc vào năm 1659, nhưng không đề niên hiệu vua Lê mà đề niên đại theo can chi - “Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh”, trọng lượng của vạc chỉ là 560 cân, nhưng nó lại có cùng kiểu dáng và hình thức trang trí với chiếc vạc đặt trước điện Kiến Trung. Cùng niên đại và cùng hình dáng, kiểu thức trang trì. Vạc có 4 quai, trên miệng chiếc vạc thứ 2 này còn khắc 3 chữ “Nội phủ tướng”. Văn tự khắc trên vạc: “Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh. Nội phủ tướng. Đồng ngũ bách lục thập cân”.

Hai chiếc thứ tư và thứ năm hiện đang được đặt trước sân điện Cần Chánh, bên trong Tử Cấm Thành. 2 chiếc này có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong các vạc thời chúa Nguyễn. Chiếc thứ nhất đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ, trọng lượng 2.482 cân; chiếc thứ hai đúc năm 1662 (Thịnh Đức thứ 10), trọng lượng 2.425 cân; cả hai đều có đường kính miệng trên 2,2m, cao trên 1m. Cả hai đều có hình dáng và kiểu thức trang trí rất giống nhau, có 4 quai, trên miệng vạc đều khắc 2 chứ Hán “Nhất song” (một đôi). Văn tự khắc trên vạc: “Thịnh Đức bát niên nhị nguyệt tạo đỉnh. Đồng nhị thiên tứ bách bát thập nhị cân. Thịnh Đức thập niên tạo đỉnh. Đồng nhị thiên tứ bách nhị thập ngũ cân”.

Chiếc vạc thứ sáu đúc vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), hiện đặt ở phía trước, bên phải Duyệt Thị đường, nặng 938 cân. Văn tự khắc trên vạc: “Cảnh Trị bát niên bát nguyệt tạo chú. Đồng cửu bách tam thập bát cân”.

Chiếc thứ bảy là chiếc cùng đôi với chiếc vạc đặt ở Duyệt Thị đường và nó được đúc sau đó 1 năm (1671), hiện được đặt ở góc sân phía đông điện Thái Hòa. Chiếc vạc còn lại nặng 896 cân, hình thức trang trí gần giống như chiếc kia. Văn tự khắc trên vạc: “Cảnh trị thập niên lục nguyệt tạo chú. Đồng bát bách cửu thập lục cân”. Một bên có dòng chữ “Chính nội phủ”.

Đôi vạc thứ tám và thứ chín dễ nhận biết vì từ hình dáng đến kích thước đều tương tự nhau, tuy nhiên, niên đại đúc của chúng lại lệch nhau đến 13 năm. Đó là hai chiếc vạc đặt trước sân điện Càn Thành. Chiếc bên trái (nhìn từ trong ra) đúc năm Chính Hòa thứ 5 (1684), nặng 1.395 cân; chiếc bên phải đúc năm Cảnh Trị thứ 10 (1671), nặng 1.390 cân. Cũng như hai chiếc vạc đặt trước sân điện Cần Chánh, hai chiếc vạc này có lẽ đã được đặt tại đây từ rất sớm. Văn tự khắc trên vạc: “Cảnh Trị thập niên chính nguyệt tạo chú. Đồng nhất thiên tam bách cửu thập cân. Chính Hòa ngũ niên lục nguyệt tạo chú. Đồng nhất thiên tam bách cửu thập ngũ cân”.

Chiếc thứ mười đặt trong khuôn viên phần tẩm điện lăng Đồng Khánh, phía đầu hồi nhà Hữu Vu (của điện Ngưng Hy). Vạc loại 4 quai, đúc năm Dương Đức thứ 2 (1673), nặng 1.013. Tuy trên miệng vạc có đề 2 chữ Hán “Nhị song” (tức 2 đôi) nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm ra loại vạc cùng cặp. Văn tự khắc trên vạc: “Dương Đức nhin nhiên lục nguyệt tạo đỉnh. Đồng nhất thiên tam thập cân”.

Chiếc cuối cùng đúc dưới thời chúa Nguyễn hiện đặt phía trước hiên, bên trái điện Long Ân, được đúc vào năm Đinh Tỵ (1667). Chiếc vạc này nặng 560 cân, có 4 quai, trên miệng có đề “Nhất song” nhưng chưa tìm ra chiếc cùng đôi với nó. Điểm đáng chú ý ở chiếc vạc này là trên miệng vạc có khắc 3 chữ “Tiền chính cung” tức nguyên xưa nó được đặt trước cung điện chính của phủ chúa. Văn tự khắc trên vạc: “Đinh Tỵ niên tứ nguyệt sơ lục nhật tạo đỉnh. Đồng ngũ bách lục thập cân”.

11 cái vạc đồng thời các chúa Nguyễn đã phản ánh thời kỳ huy hoàng của ngành đúc đồng Huế; nó có nhiều giá trị lịch sử, cũng như biểu hiện trình độ cao của những người thợ đúc đồng ở Cố đô hơn 350 năm trước. <

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thanh Hải, 320 năm Phú Xuân Huế, nghề truyền thống bản sắc và phát triển, 2007.

2. L. Sogny, Những chiếc vạc đồng tại hoàng cung, BAVH. (Những người bạn cố đô Huế,tập VIII, Nxb. Thuận Hóa, 2001.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.