Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 31/07/2006 15:28 (GMT+7)

Ung thư gan nguyên phát

Các yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư gan


Ung thư gan nguyên phát thường gặp nhiều ở nam hơn nữ 3 - 4 lần, thường ở độ tuổi sau 40. Có 90 - 95% bệnh nhân ung thư gan có nền xơ gan, mặc dù hiện nay còn chưa rõ xơ gan là yếu tố quan trọng trong lộ trình phát triển ung thư gan, hay quá trình xơ hóa và ung thư gan cùng xuất hiện đồng thời nhưng xơ hóa có thời gian ngắn hơn.


Nhiễm virus viêm gan B, C làm tăng nguy cơ phát triển ung thư gan gấp 100 lần so với người không nhiễm. Tần suất xuất hiện ung thư gan ở người nhiễm virus viêm gan B mạn tính khoảng 0,5%/năm, ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan B là 2 - 6%/năm và có thể cao hơn ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan C.


Diễn biến tự nhiên của ung thư gan


Đa số trường hợp ung thư gan phát triển chậm, giai đoạn tăng trưởng không triệu chứng có thể kéo dài nhiều năm. Thời gian khối u gan lớn gấp đôi thay đổi từ 1 đến 19 tháng, trung bình là 6 tháng. Thời gian sống còn của bệnh nhân ung thư gan không điều trị phụ thuộc vào mức độ xơ gan và kích thước u tại thời điểm phát hiện. Khoảng 50 - 90% bệnh nhân u gan/ xơ gan còn bù có thể sống sau 1 năm so với 20% bệnh nhân xơ gan mất bù có u gan. Khoảng 80 - 100% bệnh nhân có u gan kích thước nhỏ hơn 5 cm có thể sống sau 1 năm và 17 - 21% sau 3 năm.


Điều trị


Có nhiều phương pháp điều trị ung thư gan đã được ứng dụng trong thực hành lâm sàng hoặc còn trong giai đoạn thử nghiệm. Các phương pháp này có thể chia làm 2 nhóm:

- Phương pháp điều trị triệt để: Cắt gan và ghép gan.

- Phương pháp điều trị tạm thời: Thuyên tắc hóa dầu động mạch gan; Tiêm cồn, acit axetic vào bướu qua da; Đốt u bằng sóng viba và sóng cao tần; Xạ trị ngoài và trong; Áp lạnh; Điều trị nội tiết; Điều trị miễn dịch; Điều trị gen; Hóa trị.


Phẫu thuật cắt gan


Đối với các trường hợp u gan nhỏ hơn 5 cm chưa xâm lấn tĩnh mạch cửa, xơ gan Child-Pugh nhóm A và tuổi nhỏ hơn 65 thì phẫu thuật cắt gan là lựa chọn ưu tiên.


Hiện nay, sự hiểu biết tốt hơn về cấu trúc giải phẫu của gan, kỹ thuật cắt gan được cải tiến nhiều đặc biệt là các kỹ thuật tắc mạch, sự phát triển các dụng cụ phẫu thuật, kỹ thuật siêu âm trong mổ, các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và phương pháp đánh giá chính xác mức dự trữ chức năng gan đã cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 46%, giảm mức tử vong sau mổ còn 2%.


Ghép gan


Ghép gan là phương pháp điều trị duy nhất có thể loại trừ tất cả không những các nhân của u gan, mà còn các tế bào tiền ung thư của gan xơ. Mặc dù vậy, trước đây ghép gan có kết quả rất kém, tỷ lệ sống còn sau 5 năm dưới 50% chủ yếu do u tái phát. Hiện nay sự thiết lập các chỉ tiêu ghép gan như u gan đơn độc nhỏ hơn 5 cm hoặc 3 u nhỏ hơn 3 cm không có xâm lấn tĩnh mạch cửa đã giảm tỷ lệ u tái phát đến 0%, tăng mức sống còn sau 5 năm hơn 75%. Mặc dù không có các nghiên cứu đánh giá hiệu quả của hai phương pháp phẫu thuật cắt gan và ghép gan, nhưng thực tế cho thấy hiệu quả chung của chúng tương đương. Cắt gan có kết quả tốt hơn ở bệnh nhân chưa xơ gan và ghép gan tốt hơn cho bệnh nhân có nền xơ gan.


Thuyên tắc hóa dầu động mạch gan


Dựa trên nguyên tắc 80% nguồn cung cấp máu cho mô ung thư gan là từ động mạch gan so với 20% cho tế bào gan bình thường, các tế bào ung thư sẽ chết khi máu qua động mạch gan bị ngưng. Thuyên tắc hóa dầu động mạch gan (TOCE) là liệu pháp điều trị trúng đích, hóa chất chống ung thư được đưa tới tế bào ung thư gan qua ống thông kết hợp với thuyên tắc động mạch gan gây hoại tử khối u. Mức độ xơ gan và kích thước u là yếu tố quyết định cho hiệu quả TOCE, 40% bệnh nhân xơ gan Child-Pugh C tử vong do TOCE, tỷ lệ sống còn sau 3 năm là 16% ở bệnh nhân có u gan lớn hơn 5 cm so với 100% bệnh nhân với u nhỏ hơn 2 cm. Như vậy tiêu chuẩn chọn lựa cho TOCE vẫn là bệnh nhân xơ gan còn bù (Child-Pugh A hoặc C) có u gan nhỏ và không thuyên tắc tĩnh mạch cửa. TOCE còn được dùng như là liệu pháp hỗ trợ bệnh nhân sẽ được phẫu thuật cắt gan hoặc ghép gan. Tác dụng phụ của liệu pháp TOCE là do tác dụng của thuốc chống ung thư (thường là doxorubicin) và biến chứng thuyên tắc động mạch như đau, sốt, buồn nôn, nôn, tăng một số chỉ tiêu sinh hóa của gan. Tác dụng phụ nghiêm trọng có thể xảy ra ở 3 - 5% bệnh nhân.


Hóa trị qua động mạch gan


Thuốc chống ung thư được đưa chọn lọc tới khối u gan qua ống thông động mạch qua da hoặc qua nội soi ổ bụng. Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy liệu pháp hóa trị qua động mạch gan không có sự khác biệt đến mức sống còn so với hóa trị toàn thân và có nhiều biến chứng liên quan đến ống thông nên không được khuyến cáo như là phương pháp điều trị chuẩn.


Tiêm cồn/ acit axetic vào u qua da


Cồn và acid acetic gây mất nước tế bào và thuyên tắc mạch dẫn đến hoại tử khối u gan. Đây là liệu pháp đơn giản, không tốn kém, an toàn kể cả khi bệnh nhân xơ gan nặng. Chỉ định tiêm cồn/ acit axetic qua da là u gan không quá 3 ổ kích thước dưới 3 cm, nằm ở vị trí dễ tiếp cận. Chống chỉ định khi bệnh nhân có báng bụng, rối loạn đông máu, vàng da. Dưới sự hướng dẫn siêu âm, kim Chiba 22-gauge được đưa vào bờ sâu khối u, cồn tuyệt đối hoặc acit axetic tiêm chậm và rút kim ra từ từ. U nhỏ hơn 2 cm thường chỉ cần một lần tiêm, u lớn cần nhiều lần tiêm. Hiệu quả liệu pháp tiêm cồn qua da trên các bệnh nhân u gan có chức năng còn bù tương đương với phẫu thuật cắt gan. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống sau 5 năm là 40% ở các bệnh nhân có một u nhỏ hơn 3 cm, sau 4 năm khoảng 40% ở các bệnh nhân xơ gan Child-Pugh A với u gan có vỏ và kích thước lớn hơn 5 cm.


Sau tiêm cồn bệnh nhân thường sốt nhẹ do u hoại tử, đau bụng do rò cồn vào khoang phúc mạc. 1,7% có các biến chứng nghiêm trọng như đau bụng kéo dài, hoại tử cả phần thùy gan, viêm đường mật, chảy máu ổ bụng, suy gan v.v... Tỷ lệ tử vong do thủ thuật rất thấp 0,1%. Khoảng 30-50% bệnh nhân có u gan tái phát sau 2 năm.

Đốt u bằng sóng cao tần


U gan được đốt bằng sóng cao tần qua kim điện cực được đưa vào khối u xuyên da dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc qua nội soi ổ bụng, (mổ bụng hở nếu u lớn, nằm gần bao gan). Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả đốt u gan kích thước 3,0 - 9,5 cm bằng sóng cao tần cho thấy 47,6% bệnh nhân có u hoại tử hoàn toàn, 31,7% có u hoại tử bán phần (trên 90%), 20,6% có u hoại tử một phần (50 - 90%). Liệu pháp đốt u bằng sóng cao tần có hiệu quả tốt nhất khi u nhỏ hơn 3 cm. Tỷ lệ tái phát u sau 2 năm là 50%. Tác dụng phụ thường gặp: sốt, loạn nhịp tim, chảy máu, tràn khí màng phổi, áp xe gan, suy gan. Biến chứng nghiêm trọng rất hiếm.


Đốt u bằng sóng viba


U gan được đốt bằng sóng viba công suất 60W, khoảng 120 giây cho mỗi lần thực hiện qua kim điện cực. Mức độ hoại tử khối u có thể kiểm tra bằng siêu âm, CT, MRI. Số lần đốt trung bình là 4, tùy theo kích thước của u. Hiệu quả và tỷ lệ tai biến tương tự như liệu pháp dùng sóng cao tần. Liệu pháp này có hiệu quả tốt nhất khi u nhỏ hơn 3 cm.


Áp lạnh


Áp lạnh là liệu pháp điều trị tại chỗ cho u gan không thể phẫu thuật. Ống dẫn lạnh chứa nitrogen lỏng được đưa vào khối u dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc nội soi ổ bụng gây đông lạnh nhanh mô u, tế bào u gan sẽ chết khi rã đông. Biến chứng nghiêm trọng khoảng 1% thường do sự rã đông mô tế bào như vỡ gan, suy đa phủ tạng và hội chứng đông máu nội mạch rải rác…. Liệu pháp áp lạnh có hiệu quả cao nhất khi u nhỏ hơn 5 cm.


Xạ trị ngoài


Dùng máy xạ trị 3 chiều, người ta có thể chiếu lượng phóng xạ cao (40-80 Gy) vào u gan, hạn chế được tối đa sự ảnh hưởng liều phóng xạ không cần thiết trên mô gan bình thường. Tình trạng tăng men gan và loét dạ dày - tá tràng thường gặp sau xạ trị. Hiệu quả và tính an toàn của liệu pháp này còn đang được đánh giá.


Xạ trị trong


Chất phóng xạ (iod-131) được tiêm vào động mạch gan nuôi dưỡng khối u. Nhiều thử nghiệm lâm sàng đang được thực hiện.


Hóa trị toàn thân


Hóa trị toàn thân trong ung thư gan có giá trị hạn chế. Bệnh nhân ung thư gan không có chỉ định cho các phương pháp điều trị chuẩn nữa thì có thể cân nhắc hóa trị toàn thân. Thuốc có hiệu quả tốt nhất trong ung thư gan là doxorubicin và fluorouracil với tỷ lệ đáp ứng 10 - 15%. Các phác đồ điều trị phối hợp nhiều thuốc không cải thiện tỷ lệ đáp ứng và thời gian sống còn.


Điều trị nội tiết


Các kết quả ban đầu về hiệu quả của tamoxifen và các hormon đích khác như stillbestrol, flutamide trên bệnh nhân quá chỉ định phẫu thuật đã không được xác định qua các nghiên cứu ngẫu nghiên. Nghiên cứu về hiệu quả điều trị hormon trên bệnh nhân ung thư gan có thụ thể oestrogen đang được tiến hành.


Điều trị miễn dịch


Ngoài tính chất kháng virus và tăng sinh, interferon còn có hiệu quả chống ung thư, đặc biệt trong một số bệnh ung thư máu. Interferon-b được nghiên cứu nhằm hạn chế sự tái phát u ở bệnh nhân xơ gan do virus viêm gan C sau cắt gan hoặc điều trị tiêm cồn. Kết quả cho thấy chỉ 10% nhóm được điều trị interferon bị u gan tái phát so với 70% nhóm chứng sau 2 năm theo dõi. Hiệu quả kéo dài thời gian sống còn bệnh nhân u gan quá chỉ định phẫu thuật của interferon -a trong các tử nghiệm lâm sàng còn chưa thống nhất. Mặt khác interferon kết hợp với hóa trị toàn thân làm tăng thời gian sống còn ở các bệnh nhân u gan giai đoạn cuối nhưng có nhiều tác dụng phụ như suy tủy, nhiễm trùng .v.v... Chất lượng cuộc sống là khía cạnh cần được cân nhắc khi quyết định điều trị interferon.


Điều trị gen


Điều trị gen là liệu pháp có nhiều hứa hẹn trong tương lai. Các gen ngoại lai được gắn vào gen tế bào gan qua các vector của virus hoặc vi khuẩn. Chiến lược điều trị ung thư bằng kết hợp nhiều gen có tính chống ung thư trực tiếp hay gián tiếp như gen chống tăng sinh mạch máu, tái lập gen chống ung thư, tăng cường hệ miễn dịch .v.v... đã chứng tỏ có hiệu quả trên thực nghiệm. Hiện nay vẫn chưa có thử nghiệm lâm sàng.

Kết luận

Các phương pháp điều trị ung thư gan được chấp thuận sử dụng rộng rãi hiện nay là phẫu thuật ghép gan, cắt gan và các liệu pháp tại chỗ như thuyên tắc động mạch gan hóa dầu, đốt u gan sóng cao tần, tiêm cồn, acit axetic trong đó phẫu thuật phải là lựa chọn hàng đầu. Gần đây kết quả của các nghiên cứu về hiệu quả kết hợp các liệu pháp tại chỗ như thuyên tắc động mạch gan hóa dầu và đốt sóng cao tần, thuyên tắc động mạch gan hóa dầu và tiêm cồn, acid acetic rất khả quan như phẫu thuật triệt để nhưng ít biến chứng và người bệnh dễ chấp nhận hơn. Khả năng xử lý và hiệu quả điều trị u gan phụ thuộc vào kích thước u, số lượng u và mức dự trữ chức năng gan.

Nguồn: Khoa học phổ thông 22/3/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.