Ung thư Đại tràng - Trực tràng
Ung thư đại trực tràng là ung thư bắt đầu trước tiên từ ruột già (phần cuối cùng của ống tiêu hoá). Thông thường ung thư khởi phát từ lớp trong cùng của thành ruột (gọi là niêm mạc), sau đó xâm lấn ra phía ngoài qua các lớp khác của thành ruột.
Đại tràng chia thành 4 đoạn, ung thư có thể khỏi phát từ bất cứ đoạn nào trên đại tràng hoặc trực tràng. Ung thư ở mỗi vị trí trên khung đại tràng sẽ biểu hiện các triệu chứng khác nhau, thông thường nhất là có máu trong phân. Đa số các trường hợp ung thư đại trực tràng phát triển âm thầm trong nhiều năm.
Ngày nay, người ta biết ung thư khởi đầu từ một thương tổn gọi là pô líp, sau 5 đến 10 hay 25 năm, pô líp trở thành ung thư. Cắt bỏ pô líp sớm là cách phòng ngừa ung thư hữu hiệu nhất.
Trên 95% các ung thư đại trực tràng là loại ung thư tế bào tuyến, bắt nguồn từ tế bào của niêm mạc ruột già.
Tỷ lệ tử vong do ung thư đại trực tràng 15 năm sau này đã giảm. Một trong các nguyên nhân là do số ca bệnh giảm đi nhờ có nội soi đại tràng tầm soát tìm ra pô líp và cắt bỏ phòng ngừa trước khi chúng hoá thành ung thư. Ngay cả ung thư đại trực tràng cũng có thể phát hiện sớm, do đó việc điều trị sẽ dễ dàng và thành công hơn.
Hiện nay, chưa biết nguyên nhân chính xác gây ra ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, có những yếu tố nguy cơ làm bệnh nhân dễ mắc bệnh hơn.
* Yếu tố nguy cơ gần của ung thư đại trực tràng :
- T uổi: 9/10 bệnh nhân ung thư đại trực tràng trên 50 tuổi.
- Có ung thư đại trực tràng trước đó: mặc dù đã cắt bỏ hết đoạn ruột bị ung thư nhưng dễ bị ung thư ở vị trí khác trên đại tràng.
- Có tiền sử bị pô líp đại trực tràng: nhất là pô líp có kích thước lớn hoặc nhiều pô líp.
- Có tiền sử mắc bệnh đường ruột: hai bệnh viêm loét đại tràng và bệnh Crohn làm tăng mắc bệnh ung thư đại trực tràng. Trong các bệnh này, đại tràng thường bị viêm kéo dài và niêm mạc có thể bị loét. Những bệnh này cần được làm xét nghiệm theo dõi nhiều lần.
- Tiền sử gia đình: có người thân trong gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng, nhất là thân nhân có quan hệ huyết thống gần thì nguy cơ mắc bệnh tăng cao, nhất là khi ung thư xảy ra trước tuổi 60. Các gia đình này cần làm xét nghiệm tầm soát ung thư.
- Một số hội chứng bệnh gia đình: ở một số gia đình, các thành viên có thể bị hàng trăm pô líp trong đại tràng và trực tràng. Ung thư thường khởi phát từ một hoặc nhiều loại này. Các thành viên trong gia đình cần được tầm soát ung thư ngay từ nhỏ và có khi cần được tư vấn về di truyền.
- Sắc tộc: người Do Thái ở Tây Âu dễ bị ung thư đại trực tràng với tỷ lệ rất cao.
- Khẩu phần: thức ăn chứa nhiều mỡ, nhất là mỡ động vật làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đại trực tràng.
- Thiếu vận động, uống rượu và béo phì.
- Hút thuốc lá:hầu như ai cũng biết hút thuốc lá bị ung thư phổi. Nghiên cứu gần đây còn cho thấy người hút thuốc lá chết vì ung thư đại trực tràng nhiều hơn người không hút 30-40%. Ngoài ra hút thuốc lá còn tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư khác.
* Các yếu tố nguy cơ xa:
- Sắc tộc: dân Mỹ gốc Châu Phi dễ mắc bệnh và chết vì ung thư đại trực tràng.
- Đái tháo đường: làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên 30-40%, tỷ lệ tử vong cũng cao hơn.
- Làm việc ban đêm: một nghiên cứư cho thấy: phụ nữ làm việc về đêm nhiều, ít nhất 3 lần mỗi tháng trong vòng 15 năm dễ bị ung thư đại trực tràng hơn người bình thường.
- Mắc các ung thư khác hoặc điều trị ung thư: nghiên cứu gần đây cho thấy: bệnh nhân bị ung thư tinh hoàn dễ bị ung thư đại trực tràng, bệnh nhân bị ung thư tiền liệt tuyến sau xạ trị dễ mắc ung thư đại trực tràng.
* Triệu chứng của ung thư đại trực tràng:
- Thay đổi thói quen đi cầu như tiêu chảy, táo bón kéo dài.
- Mắc cầu nhưng sau khi đi xong vẫn còn cảm giác mắc cầu.
- Đi cầu ra máu, phân đen.
- Đau bụng kéo dài, mệt mỏi.
Khi có các triệu chứng này chưa chắc là đã mắc bệnh ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, cần đi khám chuyên khoa để xác định chắc chắn có mắc bệnh hay không. Cũng cần lưu ý rằng: đa số trường hợp ung thư đại trực tràng diễn tiến ấm thầm không có triệu chứng rõ rệt.
Nếu nghi ngờ người bệnh có khả năng mắc bệnh ung thư đại trực tràng, bác sĩ sẽ hỏi chi tiết bệnh sử và thăm khám, sau đó sẽ cho bệnh nhân là thêm một số xét nghiệm để xác định xem có bệnh hay không và nếu có bệnh thì ở mức độ nào.








