Từng bước quản lý bền vững các hệ sinh thái biển
Muôn nẻo các nguồn gây ô nhiễm từ lục địa
Theo số liệu thống kê chung, hiện nay các nguồn thải từ lục địa ra biển chủ yếu là nguồn thải sinh hoạt từ các khu đô thị và du lịch, nguồn thải công nghiệp và nông nghiệp. Nguồn thải sông ít có khả năng gây ô nhiễm tức thời đối với vùng biển ven bờ mà chủ yếu tích tụ một số chất ô nhiễm bền như các kim loại nặng, hóa chất bảo vệ thực vật… ngưng keo, kết bông tại các bãi triều cửa sông, ven biển hoặc tích lũy trong cơ thể sinh vật. Nguồn thải nông nghiệp cũng có lượng phát thải lớn các chất hữu cơ, dinh dưỡng và hóa chất bảo vệ thực vật nhưng là nguồn phân tán trên đồng ruộng có nhiều khả năng gây ô nhiễm trực tiếp đất nông nghiệp hơn là ảnh hưởng đến môi trường biển. Tuy nhiên, các chất ô nhiễm biển hàng năm được rửa trôi từ đồng ruộng ra biển cũng được tích tụ dần trong môi trường biển.
Trái lại nguồn thải công nghiệp và sinh hoạt thường có tổng lượng thải không lớn so với hai nguồn trên nhưng chúng là những nguồn thải điểm, thành phần gồm nhiều chất nguy hại, có nông độ chất ô nhiễm lớn (lớn hơn nhiều so với môi trường tiếp nhận), thường tập chung ven bờ, xả trực tiếp nước thải ra sông, biển không qua xử lý chưa phù hợp. Hiện tại, nguồn thải công nghiệp sinh hoạt và công nghiệp đang là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt là những khu vực vừa tập trung các điểm thải vừa có điều kiện thuận lợi cho tích tụ các chất ô nhiễm.
Một trong số nhiều nguyên nhân gây nên sự gia tăng tải lượng thải các chất ô nhiễm từ lục đia ra vùng biển ven bờ được thấy rõ do: thiếu hành lang pháp lý trong công tác quản lý; chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở hầu hết các tỉnh, thành phố ven biển ít chú trọng đến vấn đề môi trường; qui hoạch không gian cho phát triển kinh tế - xã hội cuả các tỉnh ven biển chưa quan tâm đến yếu tố vị thế, địa hình, địa mạo của vùng bờ liên quan đến tích tụ chất ô nhiễm, quản lý nguồn thải chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế, xã hội, công tác điều tra, nghiên cứu, quan trắc và xây dựng hệ thống thông tin quản lý về nguồn thải chưa được chú trọng.
Để quản lý nguồn thải, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống luật và văn bản dưới luật về BVMT cũng như các cơ quan quản lý từ cấp trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại và bất cập chính: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nguuồn thải lục địa gây ô nhiễm biển còn chưa đầy đủ và rải rác, thhiếu tính đồng bộ, chưa phân công rõ rang giữa cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp. Công tác quản lý, những tồn tại, bất cập liên quan đến cơ cấu tổ chức và thực hiện nhiệm vụ. Cụ thể: Chồng chéo về phạm vi, đối tượng và thẩm quyền quản lý nhà nước với các cơ quan quản lý nhà nước khác liên quan đến quản lý nguồn thải nói riêng, phân công chưa rõ về vai trò, chức trách và ranh giới thẩm quyền giữa các cơ quan trong thực hiện quản lý nhà nước ở những lĩnh vực công tác đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, chưa có cơ chế hoặc cơ chế pháp lý chưa đủ mạnh để ràng buộc các cơ quan khác có trách nhiệm phối hợp hoặc chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Hiệu lực của luật và các qui định ở các cấp, đặc biệt ở cấp địa phương vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Đối với các nguồn ô nhiễm biển từ lục địa, rất ít công trình điều tra, khảo sát và nghiên cứu trực tiếp được khai triển, đồng thời chưa có những qui định cụ thể về vấn đề này. Những nghiên cứu cụ thể và việc công tác về ô nhiễm biển do các nguồn từ lục địa liên quan đến ô nhiễm xuyên biên giới vẫn còn bỏ ngỏ.
Giải pháp cho quản lý bền vững
Thách thức đối với các vùng biển Việt Nam là làm thế nào để tác động ngăn chặn các quá trình tác động để phục hồi sự cân bằng cho các hệ sinh thái. Sự xuống cấp của cửa sông, vùng biển và ven biển, chủ yếu là do các hoạt động trên đất liền. Việc sử dụng sai nguồn tài nguyên thiên nhiên và mục tiêu phát triển kinh tế trước mắt đã dẫn đến suy thoái môi trường nghiêm trọng trong một khoảng thời gian tương đối ngắn và sự suy thoái hiện nay đang đe dọa đến sức khỏe và lợi ích của dân cư ven biển.
Để bảo vệ được môi trường cần có sự tham gia chi trả của các ngành kinh tế. Giảm các nguồn thải từ các ngành công nghiệp, ô nhiễm dầu, dinh dưỡng từ các hoạt động nông nghiệp, nguồn thải sinh hoạt và công nghiệp để ngăn chặn suy thoái môi trường biển. Thể chế quốc gia cần được xây dựng và sửa đổi theo chính sách và nghị định chung của quốc gia và quốc tế. Cần xây dựng nguyên tắc phòng ngừa bất kỳ khi có một hoạt động nào làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, nguồn lợi sinh vật và các hệ sinh thái biển. Nguyên tắc chi trả ô nhiễm nên để cơ sở kinh tế làm hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm môi trường, nhấn mạnh trách nhiệm của những người gây ô nhiễm phải trả tiền cho hành động của họ.
Tăng cường thể chế: Trong khi chính quyền trung ương có trách nhiệm pháp lý chung thì năng lực giám sát và thực thi pháp luật môi trường chủ yếu thuộc chính quền địa phương. Để thực thi luật, quy định thì cần tăng cường năng lực cho các cơ quan và tổ chức thực hiện và hỗ trợ. Tăng cường năng lực của các tổ chức liên quan là một hành động quan trọng để cải thiện môi trường biển. Cần hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa suy thoái môi trường và sự phát triển của con người tại vùng ven biển. Giám sát liên tục để đánh giá hiện trạng môi trường biển nhằm cải thiện kịp thời. Đây là yếu tố quan trọng để ra những quyết định trong hiện tại và tương lai dựa trên các thông tin đầy đủ căn cứ khoa học.
Xây dựng nhận thức cộng đồng: Nhìn chung, nhận thức môi trường biển còn thấp. Đặc biệt, đối với các đối tượng tiếp xúc trực tiếp với môi trường biển là nông dân và ngư dân cần có các chương trình xây dựng nhận thức cụ thể.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật:Để bảo đảm điều kiện sống an toàn và ngăn chặn suy thoái môi trường, cần cải thiện cơ sở hạ tầng và phương tiện kỹ thuật. Cải thiện cơ sở hạ tầng để xử lý chất thải đô thị, công nghiệp, xây dựng các công trình thủy lợi, trang bị kỹ thuật trong khai thác và vận chuyển dầu. Cần có ưu tiên rõ ràng để xây dựng, tài trợ và đầu tư chương trình là một phần kế hoạch chung của quốc gia và địa phương.
Hợp tác quốc tế:Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trong khu vực có biển và có chung lưu vực các sông đổ ra biển để giải quyết các vấn đề nguồn ô nhiễm biển từ lục địa. Bên cạnh đó, cần nỗ lực tìm kiếm dự án từ các tổ chức tài trợ quốc tế như Quỹ Môi trường Toàn cầu, Ngân hàng Thế giới… cung cấp vốn dưới hình thức tài trợ và các khoản vay cho các dự án phục hồi hệ sinh thái./.








