Từ người trí thức đến vị tướng của nền Dân chủ Cộng hoà
Trả lời những câu hỏi đó sẽ là những bài học hữu ích cho sự phát triển tiếp theo của đất nước trong một thế giới hiện đại, khi vai trò của tri thức sẽ quyết định tới sự phát triển của quốc gia. Tướng Cao Văn Khánh là một trường hợp nổi bật góp phần giải mã những bí ẩn của lịch sử theo một loạt các chiều cạnh khác nhau.
1. Sự hình thành tầng lớp trí thức Việt Nam hiện đại
Sự hình thành tầng lớp trí thức Việt Nam bắt đầu từ rất lâu dưới ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng: Phật giáo và Nho giáo. Khi Pháp chiếm Việt Namlàm thuộc địa, tầng lớp sĩ phu là tầng lớp có ảnh hưởng lớn nhất trong xã hội Việt Nam . Tầng lớp này bị phân ra thành hai nhóm: trực tiếp chống Pháp và hợp tác với Pháp. Nhưng dù thuộc nhóm nào thì vào những năm 20 của thế kỷ trước, họ đều cố cho con tiếp thu nền giáo dục của Pháp.
Đầu thế kỷ 20, các loại hình và các cấp giáo dục khác nhau đã lần lượt xuất hiện ở nước ta. Tuy nhiên, phải đến những năm 1940-1945, trước sức ép của sự phát triển xã hội, Toàn quyền Decoux mới cho thi hành một sự phát triển rộng rãi hơn trong giáo dục. Do vậy, số lượng những người có học ở Việt Nam khá thấp và số lượng những người có trình độ cao đẳng và đại học lại càng hiếm. Phần lớn những người có học khi cách mạng nổ ra có trình độ không quá tiểu học. Những người trong quân đội thuộc địa tham gia cách mạng trình độ học vấn cũng nằm trong hoàn cảnh chung đó.
Bình dân học vụ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp khả năng đọc, viết cho người dân Việt, nhưng giáo dục đòi hỏi cao hơn thế và nhu cầu về đội ngũ trí thức còn nhiều hơn vậy, nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Số những người được đào tạo cao đẳng, đại học và có tư duy sáng tạo đều được Chính phủ lâm thời trọng dụng.
![]() |
Ông Cao Văn Khánh là một người đặc trưng cho tầng lớp trí thức mới đó ở Việt Nam : yêu nước và mong muốn có một quốc gia độc lập. Ông có bằng cấp thuộc loại cao nhất vào lúc đó (cử nhân luật học và cử nhân toán học) và làm nghề dạy toán kiếm sống. Toán học là loại kiến thức công cụ cơ bản giúp con người có tư duy phân tích, logic, sáng tạo trong nhiều lĩnh vực khác nhau mà không bị bó buộc vào một chuyên ngành cụ thể nào như các chuyên môn khác. Luật học tạo cho con người ta một tư duy nghiêm cẩn và chính xác trong các rường mối quan hệ hành động, pháp lý, tổ chức, xã hội, nhà nước, công dân. Hành động quân sự và tổ chức quân đội là hoạt động hoàn toàn mới của quốc gia Việt Nam lúc đó cần những suy nghĩ cũng hoàn toàn mới.
2. Nền Dân chủ Cộng hoà và Hiến pháp 1946
Chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng cộng hoà có lẽ là những nét đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiến pháp 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã thể hiện rất rõ tư tưởng cộng hoà và tính hiện đại trong việc tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy quân sự nói riêng. Không phải ngẫu nhiên mà những vị Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên, Phan Anh, Tạ Quang Bửu và Võ Nguyên Giáp đều là những nhân vật dân sự. Bộ Tổng tham mưu với vai trò chỉ đạo thực hành chiến tranh cũng được tạo dựng ngay và có những người xứng đáng, cả quân sự lẫn dân sự, đứng đầu.
Tư tưởng cộng hoà thông qua văn hoá Pháp, và tinh thần yêu nước, độc lập được phổ biến rộng rãi trong tầng lớp có học của Việt Nam trong giai đoạn đó. Những quan điểm tổ chức nhà nước cộng hoà và vai trò quân đội phụng sự quốc gia và phi đảng phái là điều mà họ ý thức rõ ràng. Tổ chức Chính phủ ban đầu cũng rất hiện đại khi nhiều bộ quan trọng, nhất là Bộ Nội Vụ và Bộ Quốc phòng, đều thuộc về những người không thuộc đảng phái nào và điều này tạo nên sức hút đối với giới trí thức có đặc tính chung là lòng yêu nước.
Tuy nhiên, từ khoảng 1950, thực tế kháng chiến có nhiều thay đổi và một số lượng lớn trí thức, nhất là khối liên quan dến pháp lý và xã hội, đã đi sang phía bên kia. Những người trí thức tiếp tục đi theo cách mạng như tướng Cao Văn Khánh hẳn là một hành động được suy nghĩ thấu đáo và sự lựa chọn của họ rất đáng được giới sử gia suy ngẫm.
3. Quân đội quốc gia: định hướng và cơ cấu tổ chức
Hiện chưa có các nghiên cứu lịch sử theo phương pháp hiện đại về sự hình thành và vận hành quân đội quốc gia Việt Nam khởi đầu đã diễn ra như thế nào. Có lẽ trong giai đoạn từ 1945 tới 1947, mọi nỗ lực của nước cộng hoà non trẻ là tạo dựng cho được một quân đội quốc gia giống với những quân đội quốc gia khác. Từ 1947 đến 1950, chỉ đạo hoạt động chiến tranh của quân đội quốc gia đó với những hiểu biết rất hạn chế và trưởng thành lên cùng với kháng chiến.
Về mặt tổ chức hành chính, đã xây dựng nên Bộ Quốc phòng, các khu cùng các đơn vị chiến đấu. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi khi bước vào chiến tranh chống Pháp, lực lượng quân đội đã lên tới 82 nghìn người. Quy mô các đơn vị cho đến năm 1949 cao nhất là trung đoàn. Việc huy động người tham gia quân đội, tổ chức, hậu cần, trang bị, đào tạo và huấn luyện cho bộ đội như các quân đội Pháp là một bằng chứng của sự thành công trong việc định hình quân đội quốc gia.
Nhưng sự chỉ đạo vận hành quân đội trên thực tế là một việc không phải một sáng một chiều đã có ngay được. Mối quan hệ giữa Bộ Quốc phòng và các khu chặt chẽ đến đâu là cả một vấn đề và ai chỉ đạo các đơn vị tác chiến lại cũng là một vấn đề khác. Ví dụ khi tướng Nguyễn Bình đến Nam bộ thì trên thực tế ông hầu như chỉ có một mình và phải tổ chức lại mọi thứ để định hình nên quân đội quốc gia từ những nhóm vũ trang khác nhau.
Là tư lệnh khu V, đóng góp của tướng Khánh trong việc xây dựng quân đội quốc gia là rất lớn.
4. Quân đội nhân dân: thực tế chiến tranh
Thực tế chiến tranh cho thấy đối đầu với những quân đội mạnh nhất thế giới, sự sáng tạo là cần thiết. Chiến tranh nhân dân là sự sáng tạo của một trình độ tư duy rất cao: từ tổ chức dân quân du kích trang bị đơn giản cho đến chế tạo các loại súng SKZ phù hợp với khả năng của quân giới tự tạo Việt Nam . Đơn cử ví dụ về ý tưởng trang bị vũ khí, du đơn giản nhất, cho người dân để tránh cho họ bị đối phương sát thương hẳn phải là kết quả nghiên cứu công phu của Giáo sư Trần Đại Nghĩa, kỹ sư Lê Tâm (những đại trí thức Cụ Hồ đưa từ Pháp về đi theo kháng chiến) và các cộng sự của ông về các số liệu thống kê chiến tranh.
Nên quân đội quốc gia trở thành quân đội nhân dân theo định hướng thực tế của chiến tranh và đảng phải nắm chắc quân đội.
Nhưng chiến tranh vẫn phải được tổ chức chỉ có thể kết thúc bằng các phương pháp và thủ đoạn chuyên nghiệp của quân đội chính quy: từ kỹ thuật chiến đấu, hành động chiến thuật, tổ chức chiến dịch cho đến nghệ thuật chiến lược và chỉ đạo chiến tranh. Bắt đầu từ những hoạt động quân sự đơn giản, những phân đội nhỏ cho đến những binh đoàn lớn và chỉ huy cả cuộc chiến tranh, với đôi tượng tác chiến là Pháp, sau đó là Mỹ và chế độ Sài Gòn, ở tất cả các cấp độ đó, chúng ta đều có thể quan sát thấy sự hiện diện của tướng Cao Văn Khánh như người đi tiên phong trong từng giai đoạn quyết định. Là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 27 (một trong hai đại đoàn đầu tiên được thành lập năm 1946, cùng với Đại đoàn 23 do ông Đào Văn Trường là Đại đoàn trưởng), sau đó là Khu trưởng Khu V (1946-1948), một trong những khu đương đầu trực tiếp nhất với quân đội Pháp ngay từ những ngày đầu, được rút ra Việt Bắc (tháng 10 năm 1948) để tạo dựng những đơn vị chủ lực lớn đầu tiên (Đại đoàn Quân Tiên phong, tháng 6 năm 1949) trên chiến trường chính Bắc Bộ và là Tổ trưởng Tổ trung tâm điều hành chiến trận của Bộ Tổng chỉ huy vào lúc kết thúc chiến tranh, hẳn tài năng và bản lĩnh của tướng Khánh được tất cả mọi người thừa nhận.
Nhưng một tướng tài theo quy luật tự nhiên, ông mất sớm. Và thời gian hiện đang phủ một lớp sương mù lên các hoạt động của ông.
5. Trả lại cho lịch sử những gì của lịch sử
Nếu xuất phát từ định đề cho rằng vai trò của trí thức là rất lớn, nếu không muốn nói là quyết định trong sự phát triển thì vai trò của trí thức trong tạo dựng quân đội cũng là rất lớn, và vai trò của hai người cùng được đào tạo trong ngành toán, Tạ Quang Bửu và Cao Văn Khánh, là đặc biệt lớn. Người thứ nhất, với tư cách là Bộ trưởng và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, có tầm quan trọng đặc biệt trong sự hình thành bộ máy nhà nước quản lý chiến tranh và người thứ hai, Cao Văn Khánh với tư cách là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 27, Trưởng khu V, Đại đoàn phó Đại đoàn Quân Tiên phong, Cục trưởng Cục Quân huấn đầu tiên, Hiệu trưởng Trường Sỹ quan Lục quân, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu III, Phó tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, tư lệnh cấp quân đoàn đầu tiên B70, Tổ trưởng Tổ trung tâm trong chiến dịch Hồ Chí Minh v.v... là một loạt các hoạt động tổ chức, huấn luyện và chỉ huy hoạt động quân sự trên thực tế (một vai trò có lẽ như Trần Nguyên Hãn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh ngày xưa?).
Trên phương diện nghiên cứu, ở đây cũng cần thiết phải đặt ra một câu hỏi: tại sao một vị tướng trí thức như ông Cao Văn Khánh sau khi qua đời lại không có một tài liệu hoặc bút tích nào được lưu giữ. Điều này hoàn toàn không phù hợp với thực tế tác phong thói quen, phương pháp của bất kể một trí thức nào trên toàn thế giới.
Có thể thấy Bộ Tổng tham mưu của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn sau Điện Biên Phủ, bắt đầu từ 1955 vẫn còn được hình thành chủ yếu bởi đội ngũ trí thức gồm những tên tuổi như Đại tá Lê Trọng Tấn, Đại tá Cao Văn Khánh, Đại tá Hoàng Đạo Thuý (Cục trưởng Cục Thông tin), Đại tá Đào Văn Trường (Phó Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng Cục Tình báo), Đại tá Lê Minh Nghĩa (Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu) v.v...
Vai trò và đóng góp cụ thể của họ (các vị chỉ huy quân sự trí thức này) như thế nào cần phải có những nghiên cứu tiếp theo của các nhà khoa học lịch sử theo những phương pháp hiện đại.