TS Phạm Đình Chướng: Chấp nhận những tiêu chuẩn cao của TRIPS/WTO, về lâu dài sẽ thu được lợi ích lớn
Xin ông cho biết, trong những phiên đàm phán gia nhập WTO, về lĩnh vực SHTT những vấn đề gì được các đối tác quan tâm nhất?
SHTT luôn là một trong các nội dung đàm phán đa phương cũng như song phương quan trọng. Những nước, tổ chức quan tâm nhiều nhất đến vấn đề này là Hoa Kỳ, EU, Thụy Sĩ, úc, Nhật Bản, thậm chí cả Mêhicô. Nói một cách tổng quát, việc đàm phán về SHTT là rà soát, đối chiếu các quy định pháp luật về SHTT của Việt Nam với các quy định về SHTT của WTO, cụ thể là với Hiệp định về SHTT (TRIPS) - để xem pháp luật về SHTT của Việt Nam còn thiếu những gì, những gì đã có nhưng không phù hợp với TRIPS, từ đó WTO yêu cầu Việt Nam phải bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Nói rằng WTO đưa ra yêu cầu nhưng thực chất là chính những nước nêu trên đưa ra yêu cầu đó. Có những vấn đề các đối tác trên cho rằng quy định của Việt Nam không phù hợp với WTO nhưng chúng ta đã giải thích, chứng minh ngược lại. Có những vấn đề Việt Nam phải thừa nhận sự không phù hợp và phải đưa ra lịch trình khắc phục sự không phù hợp đó. Quá trình đàm phán còn đồng thời là việc Việt Nam từng bước khắc phục khoảng cách giữa pháp luật về SHTT của Việt Nam với Hiệp định TRIPS của WTO.
Bắt đầu từ năm 2005, khi mà Việt Nam chuẩn bị ban hành Luật SHTT, quá trình đàm phán lại tập trung vào việc rà soát, đối chiếu nội dung của Luật này và các văn bản hướng dẫn thi hành với mục tiêu kiểm tra xem Việt Nam có thực sự bảo đảm rằng hệ thống bảo hộ SHTT đáp ứng các tiêu chuẩn của WTO hay không. Như chúng ta đã biết, cuối tháng 11.2005, Luật SHTT đã được ban hành và được đánh giá là cơ bản đáp ứng được các đòi hỏi của WTO.
Tuy nhiên, còn một số nội dung bị coi là không phù hợp hoàn toàn với Hiệp định TRIPS, đó là: Chỉ dẫn địa lý; dữ liệu thử nghiệm dược phẩm và nông hoá phẩm; sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép, không phải trả tiền; áp dụng biện pháp hành chính và hình sự để xử lý xâm phạm quyền SHTT... Điều đáng mừng là các vấn đề đó đã được giải quyết tại phiên thứ 13 (phiên cuối cùng), góp phần kết thúc toàn bộ quá trình đàm phán.
Theo ông, khi đã trở thành thành viên WTO, chúng ta sẽ gặp những thách thức gì trong việc thực thi các cam kết về SHTT?
Theo đánh giá của WTO, cũng như kinh nghiệm của một số nước, việc chấp nhận các tiêu chuẩn cao của TRIPS /WTO trước mắt sẽ tạo ra những khó khăn, thậm chí có tác dụng xấu, nhưng nếu như biết vượt qua sẽ thu được những lợi ích lớn lao về lâu dài. Chúng tôi chưa có điều kiện để đánh giá đầy đủ các tác động tiêu cực trước mắt do các tiêu chuẩn cao của TRIPS /WTO đối với Việt Nam, nhưng có thể ước đoán một số tác động như sau:
Trước hết, dường như cơ chế bảo hộ SHTT có tác động hạn chế khả năng tiếp cận của xã hội và người tiêu dùng Việt Nam đối với hàng loạt sản phẩm và dịch vụ, thậm chí ảnh hưởng tới việc thực hiện một số chính sách xã hội.
ảnh hưởng tiêu cực tạm thời thứ hai của cơ chế bảo hộ SHTT với tiêu chuẩn cao là đặt các doanh nghiệp và các nhà đầu tư của Việt Nam vào một môi trường pháp lý phức tạp, bắt buộc họ phải chi phí cho việc sử dụng cơ chế này.
Một hậu quả tiêu cực nữa là dường như cơ chế bảo hộ SHTT khắt khe tạo nên sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏM, thậm chí giữa nền kinh tế lớn với nền kinh tế nhỏ.
Tuy nhiên, những khó khăn, tác động tiêu cực này chỉ là tạm thời, trước mắt và không căn bản. Xét về tổng thể, phấn đấu để đưa việc bảo hộ SHTT đạt tới chuẩn mực của TRIPS /WTO sẽ mang lại những tác động tích cực cho Việt Nam.
Là một nước nông nghiệp tham gia sân chơi WTO, theo ông chúng ta phải quan tâm tới những về vấn đề gì khi xây dựng “thương hiệu” cho các mặt hàng nông sản?
Vấn đề “thương hiệu” cho nông sản đã được đề cập tại nhiều diễn đàn và nhiều nơi. Đúng là nông sản Việt Nam trong một thời gian dài vẫn chịu cảnh “áo gấm đi đêm”, được xuất khẩu nhiều - thậm chí có loại đứng hàng đầu thế giới - nhưng khi đến tay người tiêu dùng thì đã được hiện diện dưới nhãn hiệu nước ngoài. Sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu từ Việt Nam và giá bán cho người tiêu dùng tại nước ngoài có chứa phần thua thiệt cho Việt Nam bắt nguồn từ sự vắng bóng nhãn hiệu của Việt Nam. Xét về lâu dài, chắc chắn là phải lấp đầy khoảng trống đó. Tuy nhiên, cần phải cân nhắc và điều phối một cách hợp lý mối tương quan giữa lợi ích lâu dài với lợi ích trước mắt. Bỗng nhiên hay đột ngột xuất hiện trên thị trường dưới một nhãn hiệu mới tinh mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về thông tin, tâm lý cho người tiêu dùng thì chắc chắn không thể thành công được. Vì vậy, tôi cho rằng nông sản của Việt Nam - ngay cả các nông sản truyền thống, chủ lực - đều phải có nhãn hiệu riêng, nhưng điều quan trọng không phải chỉ là gắn nhãn hiệu cho chúng mà phải áp dụng một loạt giải pháp phối hợp để nhãn hiệu xuất hiện, duy trì và phát triển lâu dài.
Xin cảm ơn ông.
Nguồn: T/c Hoạt động khoa học, số tháng 6/2007, tr 54








