Trung Quốc và WTO
1. Trung Quốc gia nhập WTO:
Sau 15 năm đàm phán, Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng 11 năm 2001 tại Hội nghị Bộ trưởng của WTO ở Doha (Qatar). Việc Trung Quốc vào WTO được coi như một sự kiện quan trọng có ảnh hưởng lớn đến nhiều nước phát triển cũng như đang phát triển và đến nền thương mại trên thế giới.
Trung Quốc là một trong 23 quốc gia sáng lập tổ chức GATT (Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại) năm 1948 nhằm phát triển ngoại thương và phát triển kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công năm 1949, Tưởng Giới Thạch chạy sang Đài Loan tuyên bố Trung Quốc rút khỏi GATT. Trung Quốc không công nhận tuyên bố đó nhưng trên thực tế đứng ngoài GATT trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Đến 1986, gần 40 năm sau, với chính sách mở cửa, Trung Quốc mới tỏ ý tái lập quy chế thành viên GATT của mình, lập một Uỷ ban nghiên cứu về GATT tháng 3 năm 1987 và từ đó tiến hành đàm phán gia nhập GATT. Sau khi WTO ra đời tháng 1 năm 1995 kế thừa GATT, Uỷ ban trên trở thành Uỷ ban về việc Trung Quốc gia nhập WTO.
Quá trình chuẩn bị tham gia WTO của Trung Quốc là một quá trình lâu dài vừa phải giải quyết các vấn đề nội bộ, vừa tiến hành các cuộc đàm phán song phương và đa phương kéo dài hàng chục năm.
Để vào WTO, các thành viên WTO đã buộc Trung Quốc phải chấp nhận một sự giám sát chặt chẽ, như thông báo cho WTO các luật lệ và biện pháp của Trung Quốc, WTO còn lập ra một cơ chế để giám sát gọi là Cơ chế xem xét quá trình quá độ của Trung Quốc (China Transitional Review Mechanism).
Sau đây là một vài lĩnh vực kinh tế quan trọng sau khi Trung Quốc gia nhập WTO.
2. Về may mặc:
Trong thị trường may mặc thế giới, Trung Quốc trở thành đối tượng tranh chấp mạnh trong những năm vừa qua, khi các hạn ngạch được bãi bỏ để tự do hoá thị trường thế giới khi hiệp ước về dệt may ATC của WTO chấm dứt cuối tháng 12 năm 2004.
Sự thật từ năm 2002, sau khi gia nhập WTO sự phát triển xuất khẩu dệt may Trung Quốc không có gì cản nổi. Theo Ngân hàng thế giới, thị phần của Trung Quốc đối với thế giới hiện nay là 20% và sẽ đạt 50% vào năm 2010, tức là một nửa nhu cầu tiêu thụ trên toàn thế giới. Quý I năm 2006, xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ tăng 29% so với quý I năm 2004, riêng quần Âu tăng 1.500%. Trong thời kỳ đó, xuất khẩu của Trung Quốc vào châu Âu tăng 186% cho áo sơ mi, 413% cho quần Âu và 534% cho áo đan len.
Trước tình hình đó các thành viên WTO, đặc biệt là Mỹ và Liên hiệp châu Âu, tìm cách hạn chế xuất khẩu hàng may mặc của Trung Quốc và bảo vệ sản xuất nội địa. Mỹ đã đơn phương tái lập hạn ngạch cho bảy mặt hàng có tỷ lệ nhập khẩu từ Trung Quốc tăng cao nhất. Liên hiệp châu Âu cũng tìm cách giới hạn nhập 10 loại hàng dệt may Trung Quốc.
3. Về nông nghiệp:
Nông nghiệp vẫn là một đề tài căng thẳng nhất trong các quan hệ giữa các thành viên cũng như trong các cuộc đàm phán. Đây là con bài yếu nhất của Trung Quốc trong hội nhập. Vì Trung Quốc vẫn còn là một nước nông nghiệp với hơn 800 triệu người, tức khoảng 60% dân số, sống bằng nghề nông, 1/4 các hộ nông dân thu nhập dưới 1 đô la một ngày trong năm 1999 và 3/4 người nghèo sống ở nông thôn, cho nên nếu nông thôn kiệt quệ do cạnh tranh không nổi với nước ngoài thì có thể gây bất ổn định trong xã hội.
Vì vậy nhà nước Trung Quốc rất quan tâm điều đó. Trong đàm phán, Trung Quốc đòi được hưởng quy chế nước đang phát triển để được hưởng mức tài trợ cao nhất mà WTO cho phép, tức 10% tổng sản lượng nông phẩm được tài trọ, thay vì 5% áp dụng cho các thành viên là nước phát triển. Sau một thời gian giằng co kéo dài, cuối cùng thoả thuận mức 8,5%, tuy còn rất ít so với sự tài trợ khổng lồ của Mỹ và châu Âu cho nông nghiệp của họ.
Theo kết quả điều tra của Ngân hàng thế giới tháng 2 năm 2006, trong 84.000 hộ nông dân Trung Quốc thì mức thu nhập bình quân của các hộ nông dân giảm 0,7% so với trước khi Trung Quốc gia nhập WTO, mức sống của những hộ nghèo nhất tụt 6% và thu nhập giảm trong khi giá hàng tiêu dùng tăng. Theo thống kê chính thức của Trung quốc, con số người nghèo (có thu nhập dưới 77 đô la một năm) đã tăng trở lại, từ 28,2 lên 29 triệu người, lần đầu tiên kể từ sau khi cải cách kinh tế được thực hiện cách đây 25 năm. Sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị tiếp tục đào sâu với 3/4 người nghèo cả nước ở nông thôn.
Trước tình hình đó, Trung Quốc thực hiện một số biện pháp: giảm thuế nông nghiệp đi đến sẽ bãi bỏ; ổn định giá ngũ cốc và nông sản; tiếp tục tài trợ trực tiếp cho nông dân; đề ra mục tiêu tăng thu nhập của nông dân 5% mỗi năm. Trong năm 2004, ngân sách tài trợ trực tiếp cho nông dân là 5,4 tỷ đô la, thu nhập của nông dân so với 2003 tăng 6,8% để tiến tới đạt 355 đô la, nhưng vẫn chưa bằng 1/3 thu nhập bình quân ở thành thị. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đề ra một số biện pháp dài hạn đối với nông nghiệp.
Thực tế đã cho thấy khuynh hướng mậu dịch tăng trưởng. Xuất khẩu nông sản đã tăng nhanh. Hiện nay Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu rau khô, rau đông lạnh, nấm chế biến, tỏi và quả đóng hộp. Thuỷ sản tăng 3 lần trong 10 năm. Nay Trung Quốc đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản với 4,5 tỷ đô la. Trung Quốc đứng hàng thứ 8 trên thế giới về xuất khẩu nông sản sang châu Âu, cung cấp 15% tất cả các nông sản vào Nhật. Từ đó Trung Quốc sẽ không chỉ là “phân xưởng của thế giới” về hàng công nghiệp mà có tham vọng trở thành “nông trại của thế giới”.
Tuy nhiên về nông nghiệp, Trung Quốc còn nhiều vấn đề phải giải quyết: đất nông nghiệp mất dần, hàng trăm triệu nông dân ra thành phố tìm việc làm. Theo một số chuyên gia thì đây là “một trái bom nổ chậm” cho trật tự xã hội. Tháng 3 năm 2006, Thủ tướng Ôn Gia Bảo cam kết trước Quốc hội sẽ đưa vấn đề hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp lên ưu tiên hàng đầu.
Tham vọng trở thành một cường quốc nông nghiệp giải thích tại sao Trung Quốc đặt biệt quan tâm và tích cực đối với vấn đề này trong WTO.
4. Về xe hơi:
Vào WTO, ở Trung Quốc, có ngành sẽ được nhờ đó để phát triển, có ngành sẽ phải trả cái giá của sự hội nhập. Một số nhà kinh tế dự báo rằng ngành xe hơi là một trong những “ngành nạn nhân”, các công ty lớn nước ngoài sẽ ào vào chiếm lĩnh thị trường, bóp chết ngành xe hơi nội địa của Trung Quốc còn non kém, làm sao cạnh tranh nổi với những xe của Mỹ, Đức, Nhật...
Thế nhưng chỉ 7 tháng sau khi vào WTO, cú sốc lại thuộc các công ty nước ngoài. Hai công ty nhỏ của Trung Quốc, đó là hai hãng xe nội địa Chery và Merrie, cạnh tranh trực tiếp với Volkswagen và Toyota . Bốn tháng đầu năm 2004, xe hơi nội địa bán ra thị trường tăng 30%, Volkswagen tăng 16%, xe Chery tăng 305%. Yếu tố thành công là công ty năng động, sự thành công của công nghệ điện tử, nhà nước hỗ trợ phát triển sản xuất linh kiện và phụ tùng nội địa, chuyển giao công nghệ từ các đối tác quốc tế. Có nhà tiên đoán cho rằng Trung Quốc không lâu nữa sẽ đuổi kịp Nhật và Hàn Quốc về xuất khẩu xe hơi giá rẻ. Trung Quốc có tham vọng vượt Đức trong năm nay để chiếm hàng thứ 3 trên thế giới về sản xuất xe hơi. Năm 2004, Trung Quốc sản xuất 5,07 triệu xe hơi, Đức sản xuất 5,57 triệu. Bên cạnh hai công ty xe hơi lớn và SAIC và FAW, Trung Quốc còn có hơn 100 công ty thầu phụ và hàng ngàn công ty nhỏ sản xuất phụ tùng và phân phối.
Nhờ sản xuất sao chép mẫu mã xe nước ngoài mà một chiếc xe Chery của Trung Quốc không khác gì chiếc xe Volkswagen của Đức mà giá rẻ hơn 1/4, xe Merrie của Trung Quốc giống hệt xe Toyota của Nhật.
Có thể nói Trung Quốc đã thành công trong việc gia nhập WTO. Nhưng không phải nước nào vào WTO cũng có kết quả như vậy. Trung Quốc là một trường hợp đặc biệt, một ngoại lệ.
Nguồn: Bản tin “Quỹ Hoà bìnhvà Phát triển Việt Nam , số 8, 2006







