Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta
Phải nói ngay rằng việc chối bỏ triều Nguyễn nói trên là kết quả của một quá trình chuyển hóa từ thực tế khách quan thành nhận thức chủ quan. Đánh bại Tây Sơn và làm mất nước, triều Nguyễn dường như hội đủ các yếu tố để trở thành một đối tượng tinh thần của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, đặc biệt là từ 1954 đến 1975. Trong khi đó, trong ý đồ chia cắt đất nước lâu dài và mạo nhận là kẻ kế thừa quốc thống, chính quyền Sài Gòn mà mở đầu là tập đoàn Ngô Đình Diệm đã chú ý tới các chúa Nguyễn Đàng Trong với “sự nghiệp hùng cứ phương nam” từ rất sớm, điều này dường như cũng gây ra một phản ứng tâm lý nơi giới sử học cách mạng ở miền Bắc, và kết quả là lý lịch triều Nguyễn với những cha ông cát cứ lại thêm một vết đen. Hơn thế nữa, với những chiến dịch tố cộng mang tên các danh tướng của Gia Long như Trương Tấn Bửu, Thoại Ngọc Hầu trước 1960, chính quyền Sài Gòn còn tỏ ra rất có ý thức về việc biến triều Nguyễn thành một lực lượng tinh thần trong mặt trận chống cộng... Đáng tiếc là trong một thời gian dài, chúng ta dường như mặc nhiên để cho các lực lượng chống cộng và phản dân tộc tự do “kế thừa” triều Nguyễn, và ở một mức độ nhất định, cả thời Nguyễn nữa. Cho nên là bắt đầu từ việc phủ nhận ý đồ nghiên cứu triều Nguyễn với động cơ chống cộng và phản dân tộc của kẻ thù, chúng ta lại gần như đi tới chỗ phủ nhận hoàn toàn triều Nguyễn, nghĩa là chỉ nghiên cứu để phủ nhận hay tai hại hơn, đôi khi còn phủ nhận cả việc nghiên cứu. Nhưng đây là triều đại phong kiến Việt Nam còn để lại nhiều tư liệu về nó nhất - cả tư liệu thành văn lẫn tư liệu truyền khẩu, cả tư liệu là thư tịch lẫn tư liệu là hiện vật, cả ở trong nước lẫn ở ngoài nước, cả của người Việt Nam lẫn của người nước ngoài, nên việc chối bỏ triều Nguyễn như vậy cũng đồng nghĩa với việc quay lưng với rất nhiều tư liệu lịch sử quý báu có lẽ là vĩnh viễn không còn tìm lại được. Tuy nhiên, đối với những gì chúng ta đã mất trong thời gian chối bỏ triều Nguyễn thì đó mới chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm.
![]() |
(**)Ảnh 2 |
Bên cạnh đó, sau 1802 triều Nguyễn đã ra sức xây dựng ở miền Bắc một thiết chế văn hóa tư tưởng vừa xóa bỏ quá khứ Tây Sơn vừa thủ tiêu mô hình Lê Trịnh. Nhưng sau khi cho đánh đòn Ngô Thì Nhậm, Phạm Huy Ích tại Quốc tử giám do triều Lê dựng ở Thăng Long như một cách xác nhận quyền thừa kế hợp pháp đối với di sản chính trị đồng thời khẳng định vai trò đại diện chính thức cho lịch sử chính thống ở Việt Nam của mình, năm 1811 họ vẫn sai sưu tầm sách sử của nhà Lê và nhà Tây Sơn trong dân gian, nghĩa là vẫn rất có ý thức trong việc tập hợp những giá trị văn hóa được tạo ra dưới thời các đối thủ chính trị cũ. Đáng tiếc là lịch sử của chúng ta trên phương diện này lại khác. Rất nhiều lễ hội dân gian ở miền Bắc sau 1954 rồi ở miền Nam sau 1975 gần như hoàn toàn bị xóa sổ. Sau cải cách ruộng đất, hàng loạt cổ vật bị coi là tàn dư của văn hóa phong kiến ở miền Bắc đã trở thành sở hữu của các nhà sưu tập thế giới. Sau tháng 4.1975, văn hóa thị dân ở các đô thị phía nam vĩ tuyến 17 gần như bị đồng nhất với văn hóa thực dân mới... Thái độ cứng rắn về ý thức hệ giống như tính không khoan nhượng ở nhiều tôn giáo độc thần thời Trung cổ ấy đã làm méo mó cả một lịch sử quan vốn nhân văn và khoa học, nên khoảng mươi năm nay giới sử học Việt Nam lại phải bận rộn với nhiều vấn đề lẽ ra đã không còn là vấn đề như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, và rộng ra có thể kể thêm Trương Vĩnh Ký hay Phan Châu Trinh... Việc chối bỏ triều Nguyễn còn làm sử học Việt Nam hiện nay chưa tổng kết được quá khứ dân tộc một cách đúng đắn và toàn diện, mà tiêu biểu nhất có lẽ là việc thờ ơ với cả cái phần lịch sử Việt Nam thời họ Nguyễn Đàng Trong. Cứ thử lập một thư mục nghiên cứu lịch sử Đàng Trong từ 1975 đến nay sẽ thấy học giới Việt Nam đã bị các nhà nghiên cứu nước ngoài như Li Tana, Stephen Denis O’ Harraw, Keith Weller Taylor, Alexander Barton Woodside... qua mặt, đây có lẽ cũng là một đề tài suy ngẫm lớn đối với những người quan tâm tới tiền đồ của nền học thuật Việt Nam.
Có nhiều lý do khiến cho trong nhiều năm qua lịch sử của chúng ta đã diễn ra một cách không bình thường, trong đó một lý do quan trọng là cách thức mà chúng ta tiếp nhận lịch sử và các bài học lịch sử. Cho nên bài học về việc chối bỏ triều Nguyễn và các bài học lịch sử của triều Nguyễn đã cho thấy phải tiếp nhận lịch sử như nó có chứ không phải như mình muốn. Trên đường hướng này, chúng ta vẫn có lý do để mà hy vọng, bởi vì như một câu danh ngôn tuy cũ nhưng đúng từng nói “Chân lý có trước vừa sự giác ngộ có sau”.
Nguồn: Xưa & Nay, số 284, 5/2007, tr 21
(*)Ảnh: 1 Từ trái sang: GS. Văn Tạo, GS. Trần Văn Giàu, GS. Đinh Xuân Lâm, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại cuộc tọa đàm “Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” do tạp chí Xưa & Nay tổ chức (tháng 8 – 2002).
(**)2 Tọa đàm “Trương Vĩnh Ký với văn hóa” do Sở Văn hóa Thông tin TP. HCM, tạp chí Xưa & Nay tổ chức (tháng 2 – 2001). Từ trái sang: ông Dương Trung Quốc, ông Trần Bạch Đằng, GS. Đinh Xuân Lâm chủ trì cuộc tọa đàm.