Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 13/08/2007 21:25 (GMT+7)

Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta

Phải nói ngay rằng việc chối bỏ triều Nguyễn nói trên là kết quả của một quá trình chuyển hóa từ thực tế khách quan thành nhận thức chủ quan. Đánh bại Tây Sơn và làm mất nước, triều Nguyễn dường như hội đủ các yếu tố để trở thành một đối tượng tinh thần của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, đặc biệt là từ 1954 đến 1975. Trong khi đó, trong ý đồ chia cắt đất nước lâu dài và mạo nhận là kẻ kế thừa quốc thống, chính quyền Sài Gòn mà mở đầu là tập đoàn Ngô Đình Diệm đã chú ý tới các chúa Nguyễn Đàng Trong với “sự nghiệp hùng cứ phương nam” từ rất sớm, điều này dường như cũng gây ra một phản ứng tâm lý nơi giới sử học cách mạng ở miền Bắc, và kết quả là lý lịch triều Nguyễn với những cha ông cát cứ lại thêm một vết đen. Hơn thế nữa, với những chiến dịch tố cộng mang tên các danh tướng của Gia Long như Trương Tấn Bửu, Thoại Ngọc Hầu trước 1960, chính quyền Sài Gòn còn tỏ ra rất có ý thức về việc biến triều Nguyễn thành một lực lượng tinh thần trong mặt trận chống cộng... Đáng tiếc là trong một thời gian dài, chúng ta dường như mặc nhiên để cho các lực lượng chống cộng và phản dân tộc tự do “kế thừa” triều Nguyễn, và ở một mức độ nhất định, cả thời Nguyễn nữa. Cho nên là bắt đầu từ việc phủ nhận ý đồ nghiên cứu triều Nguyễn với động cơ chống cộng và phản dân tộc của kẻ thù, chúng ta lại gần như đi tới chỗ phủ nhận hoàn toàn triều Nguyễn, nghĩa là chỉ nghiên cứu để phủ nhận hay tai hại hơn, đôi khi còn phủ nhận cả việc nghiên cứu. Nhưng đây là triều đại phong kiến Việt Nam còn để lại nhiều tư liệu về nó nhất - cả tư liệu thành văn lẫn tư liệu truyền khẩu, cả tư liệu là thư tịch lẫn tư liệu là hiện vật, cả ở trong nước lẫn ở ngoài nước, cả của người Việt Nam lẫn của người nước ngoài, nên việc chối bỏ triều Nguyễn như vậy cũng đồng nghĩa với việc quay lưng với rất nhiều tư liệu lịch sử quý báu có lẽ là vĩnh viễn không còn tìm lại được. Tuy nhiên, đối với những gì chúng ta đã mất trong thời gian chối bỏ triều Nguyễn thì đó mới chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm.

(**)Ảnh 2

(**)Ảnh 2

Là vương triều duy nhất trong các chính quyền phong kiến Việt Nam xác lập được quyền cai trị từ Lạng Sơn tới Cà Mau, triều Nguyễn cũng bị đặt vào một bối cảnh lịch sử đặc biệt. Khác với triềuTrần có được ngai vàng nhờ đảo chính cung đình một cách hòa bình nên về cơ bản vẫn kế thừa tổ chức chính quyền của triều Lý, hay triều Lê có được ngai vàng nhờ thắng lợi của cuộc kháng chiến chốngquân Minh nên có nhiều thuận lợi trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trên cơ sở sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, triều Nguyễn phải xây dựng hệ thống chính trị của họ sau một cuộc chiến tranhkết thúc gần ba trăm năm phân tranh và nội chiến ở Việt Nam và vì vậy cũng bị cái quá khứ ấy chi phối. Ngay từ đầu đời Gia Long, họ đã bị đặt trước sự chống đối khá quyết liệt và phổ biến của nhiềulực lượng chính trị khác nhau ở vùng Đàng Ngoài cũ. Năm 1803, Tiết độ Tây Sơn cũ là Nguyễn Văn Tuyết họp quân đánh Hải Dương, xưng niên hiệu Bảo Hưng. Năm 1806, cháu chín đời của Mạc Nguyên Thanh(tức Mạc Kính cũ) là Mạc Xán Vi nổi lên ở Lạng Sơn, đặt niên hiệu Cảnh Xuân. Năm 1807, Xiển Văn tức Tổng Trung tôn phù con Đoan Namvương Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) là Trịnh Vân, dấy quân ở Sơn Nam . Năm 1816, một số nhóm thân Lê suy tôn Lê Duy Hoán - kẻ được triều Nguyễn phong là Diên tự công để giữ việc hương hỏa cho nhàLê – làm vua, chế tạo ấn tín định nổi dậy ở Thanh Hóa... Đây là chưa kể tới các thổ hào dân tộc ít người luôn luôn có những lý do nếu không phải là chính đáng thì cũng là chính thức để tổ chức lựclượng võ trang chống lại chính quyền trung ương và đặc biệt là các phong trào khởi nghĩa nông dân liên tục nổ ra trên một Bắc Hà ruộng ít người đông, nhiều bất công và lắm tai trời ách nước. Có thểnói khi tiếp quản miền Bắc năm 1802 triều Nguyễn đã đứng trước một tình hình chính trị - xã hội ít nhất cũng phức tạp không kém gì miền Nam mà chúng ta tiếp quản năm 1975. Nhưng ba mươi năm sau khitriều Nguyễn tiêu diệt Tây Sơn, Minh Mạng đã tiến hành được cuộc cải cách hành chính lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến với việc giải thể Bắc Thành năm 1832 và Gia Định Thành năm 1833,đưa văn quan vào vị trí đứng đầu bộ máy hành chính của địa phương thay cho chế độ võ tướng trấn thủ, chấm dứt hoàn toàn chế độ quân chính kéo dài từ giữa thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, còn việc cảicách hành chính của chúng ta đến nay không những chưa có dấu hiệu nào cho thấy sắp về tới đích mà cả mục tiêu xem ra cũng còn khá mơ hồ. Tuy nhiên ở một khía cạnh khác thì việc chối bỏ triều Nguyễnlại đẩy chúng ta rơi vào vết xe đổ cũ của họ sau khi thống nhất đất nước. Việc san bằng những đặc điểm kinh tế - xã hội giữa hai miền cùng sự áp đặt chế độ bao cấp thời chiến vào cả vùng đất phía namvĩ tuyến 17 mà kết quả là kìm hãm sức sản xuất trong đất nước thời gian 1975 – 1985 là một ví dụ. Triều Nguyễn bế quan tỏa cảng, trọng nông ức thương thì chúng ta hạn chế kinh tế tư nhân, ngăn sôngcấm chợ. Cần nhắc lại rằng với cung cách hoàn tất việc thống nhất quốc gia không bằng con đường xây dựng kinh tế và phát triển xã hội mà bằng con đường chính trị khẳng định vương triều, cái quốc giaViệt Nam mới thống nhất về mặt hành chính và một cách hình thức của triều Nguyễn sau 1833 vẫn thường xuyên đối diện với thực trạng đói nghèo lạc hậu, nên khi bị hút vào quỹ đạo xâm lăng của chủ nghĩathực dân tư bản Pháp, nó đã không có được quốc lực đủ mức cần thiết để chống lại một kẻ thù lạ tay.

Bên cạnh đó, sau 1802 triều Nguyễn đã ra sức xây dựng ở miền Bắc một thiết chế văn hóa tư tưởng vừa xóa bỏ quá khứ Tây Sơn vừa thủ tiêu mô hình Lê Trịnh. Nhưng sau khi cho đánh đòn Ngô Thì Nhậm, Phạm Huy Ích tại Quốc tử giám do triều Lê dựng ở Thăng Long như một cách xác nhận quyền thừa kế hợp pháp đối với di sản chính trị đồng thời khẳng định vai trò đại diện chính thức cho lịch sử chính thống ở Việt Nam của mình, năm 1811 họ vẫn sai sưu tầm sách sử của nhà Lê và nhà Tây Sơn trong dân gian, nghĩa là vẫn rất có ý thức trong việc tập hợp những giá trị văn hóa được tạo ra dưới thời các đối thủ chính trị cũ. Đáng tiếc là lịch sử của chúng ta trên phương diện này lại khác. Rất nhiều lễ hội dân gian ở miền Bắc sau 1954 rồi ở miền Nam sau 1975 gần như hoàn toàn bị xóa sổ. Sau cải cách ruộng đất, hàng loạt cổ vật bị coi là tàn dư của văn hóa phong kiến ở miền Bắc đã trở thành sở hữu của các nhà sưu tập thế giới. Sau tháng 4.1975, văn hóa thị dân ở các đô thị phía nam vĩ tuyến 17 gần như bị đồng nhất với văn hóa thực dân mới... Thái độ cứng rắn về ý thức hệ giống như tính không khoan nhượng ở nhiều tôn giáo độc thần thời Trung cổ ấy đã làm méo mó cả một lịch sử quan vốn nhân văn và khoa học, nên khoảng mươi năm nay giới sử học Việt Nam lại phải bận rộn với nhiều vấn đề lẽ ra đã không còn là vấn đề như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, và rộng ra có thể kể thêm Trương Vĩnh Ký hay Phan Châu Trinh... Việc chối bỏ triều Nguyễn còn làm sử học Việt Nam hiện nay chưa tổng kết được quá khứ dân tộc một cách đúng đắn và toàn diện, mà tiêu biểu nhất có lẽ là việc thờ ơ với cả cái phần lịch sử Việt Nam thời họ Nguyễn Đàng Trong. Cứ thử lập một thư mục nghiên cứu lịch sử Đàng Trong từ 1975 đến nay sẽ thấy học giới Việt Nam đã bị các nhà nghiên cứu nước ngoài như Li Tana, Stephen Denis O’ Harraw, Keith Weller Taylor, Alexander Barton Woodside... qua mặt, đây có lẽ cũng là một đề tài suy ngẫm lớn đối với những người quan tâm tới tiền đồ của nền học thuật Việt Nam.

Có nhiều lý do khiến cho trong nhiều năm qua lịch sử của chúng ta đã diễn ra một cách không bình thường, trong đó một lý do quan trọng là cách thức mà chúng ta tiếp nhận lịch sử và các bài học lịch sử. Cho nên bài học về việc chối bỏ triều Nguyễn và các bài học lịch sử của triều Nguyễn đã cho thấy phải tiếp nhận lịch sử như nó có chứ không phải như mình muốn. Trên đường hướng này, chúng ta vẫn có lý do để mà hy vọng, bởi vì như một câu danh ngôn tuy cũ nhưng đúng từng nói “Chân lý có trước vừa sự giác ngộ có sau”.

Nguồn: Xưa & Nay, số 284, 5/2007, tr 21

(*)Ảnh: 1 Từ trái sang: GS. Văn Tạo, GS. Trần Văn Giàu, GS. Đinh Xuân Lâm, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại cuộc tọa đàm “Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” do tạp chí Xưa & Nay tổ chức (tháng 8 – 2002).

(**)2 Tọa đàm “Trương Vĩnh Ký với văn hóa” do Sở Văn hóa Thông tin TP. HCM, tạp chí Xưa & Nay tổ chức (tháng 2 – 2001). Từ trái sang: ông Dương Trung Quốc, ông Trần Bạch Đằng, GS. Đinh Xuân Lâm chủ trì cuộc tọa đàm.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp và làm việc với Tham tán thương mại Đại sứ quán Iran
Ngày 30/5, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch VUSTA đã có buổi tiếp và làm việc với ông Mohsen Rezaeipour, Tham tán thương mại Đại sứ quán Iran tại Việt Nam về vấn đề chuyển giao và hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cao.
LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.