Triển vọng gia tăng hiệu quả sản xuất lúa và thu hẹp khoảng cách gạo xuất khẩu với Thái Lan
Triển vọng gia tăng hiệu quả sản xuất lúa, hạ gía thành và tăng lợi nhuận cho nông dân
Hiệu quả sản xuất được đánh giá qua việc tăng năng suất, giảm chi phí, tăng hiệu quả, phát triển bền vững và ô nhiễm môi trường. Qua việc đẩy mạnh các chương trình phát triển sản xuất và áp dụng giống mới, giống lúa cấp xác nhận… đã đáp ứng được các mục tiêu này.
Giảm lượng giống lúa gieo sạ và sử dụng giống xác nhận là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện chương trình 3 giảm 3 tăng… Giảm giống gieo sạ sẽ giúp cho việc giảm sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật được tốt hơn, chủ động áp dụng các tiến bộ KHKT khác theo mong muốn, vì nếu sạ dày theo tập quán canh tác cũ thì nông dân luôn luôn bị động trong quá trình canh tác lúa, phải đáp ứng phân bón cho mật độ sạ quá dày, phải phòng trừ cỏ dại một cách khó khăn hơn và luôn phải chống chọi với nhiều loại dịch hại tấn công cây lúa trong suốt vụ sản xuất. Sạ thưa, sạ hàng chủ động việc cung cấp dinh dưỡng, phòng trừ dịch hại, chống đổ ngã (nhất là vụ hè thu và thu đông) giữ được năng suất sản lượng lúa (Báo NNVN, 27/5/2009).
Tại An Giang, việc áp dụng 3 giảm 3 tăng đã làm giảm giá thành khoảng 400 đ/kg lúa so với không áp dụng. Nếu giảm bình quân 200 đồng/kg lúa thì với tổng lượng gạo xuất khẩu của nước ta bình quân hàng năm khoảng 5 triệu tấn (ước tính tương đương khoảng 10 triệu tấn lúa) thì việc giảm giá thành hay tăng thêm lợi nhuận khoảng 2.000 tỉ đồng/năm. Cũng theo báo NNVN, nhìn một góc độ khác, muốn tăng năng suất và chất lượng lúa gạo hiện nay, trong canh tác lúa phải sử dụng giống xác nhận, hệ thống nhân giống lúa trong toàn vùng ĐBSCL (kể cả hệ thống giống chính quy và không chính quy) chỉ đảm nhận được việc cung ứng khoảng 100 ngàn tấn giống trong tổng số nhu cầu 400 ngàn tấn/năm. Việc tiết kiệm giống sẽ góp phần đáng kể vào áp lực cung ứng giống xác nhận của toàn bộ hệ thống giống và tạo được cơ hội cho nhiều nông dân tiếp cận và sử dụng được lượng giống xác nhận.

Trước đây, nông dân ở ĐBSCL có tập quán gieo sạ từ 200 kg trở lên. Thậm chí, có nông dân sạ 250 – 300 kg/ha. Hiện nay, theo điều tra của Trung tâm KN –KN quốc gia bình quân toàn vùng giảm xuống còn 150 kg. Như vậy, qua gần 10 năm giảm bình quân 50kg giống gieo sạ/ha. Tính sơ bộ, mỗi năm giảm được một lượng giống đáng kể khoảng 200 ngàn tấn lúa giống. Nếu chỉ tính giá lúa thịt hiện nay khoảng 6.000 VNĐ/kg thì chỉ riêng việc tiết kiệm giống của 3 giảm 3 tăng đã mang lại hiệu quả thu được từ tiết kiệm hợp lý cho nông dân là 1.200 tỉ VNĐ/năm. Con số này sẽ được nâng lên trong những năm tới khi mà tỉ lệ diện tích lúa được nông dân áp dụng Chương trình 3 giảm 3 tăng càng cao.
Triển vọng trên là có khoa học vì đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu từ Viện Lúa ĐBSCL và cho khuyến cáo lượng giống lúa gieo sạ hợp lý khoảng 80 – 100 kg giống/ha. Về mặt sinh học cây lúa thì khi giảm lượng giống gieo sạ còn có khả năng hấp thụ ánh sáng tốt hơn, hạn chế dịch bệnh phát triển, bộ rễ lúa phát triển sâu và khỏe hơn. Lúa sạ thưa mặc dầu có số lượng bông ít, nhưng bông dài và nhiều hạt chắc hơn so với sạ dày. Không chỉ trên lý thuyết mà nhiều thí nghiệm cho thấy ruộng sạ thưa với 80 – 120 kg/ha vẫn cho năng suất tương đương sạ dày trên 200 kg/ha. Theo nghiên cứu sạ thưa theo hàng sẽ cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao và gia tăng lợi nhuận chắc/bông, tăng chiều dài bông… so với sạ dày và sạ lan truyền thống của nông dân. (Nguyễn Công Thành, 2011). Từ đó, mở ra khả năng giảm lượng giống gieo sạ bình quân thêm ít nhất khoảng 50 kg/ha nữa và số tiền tiết kiệm cũng tương đương 1.200 tỉ đồng. Lúc đó tổng giá trị tiết kiệm được chỉ riêng do giảm chi phí giống là 2.400 tỉ VNĐ.
Triển vọng gia tăng lượng gạo xuất khẩu, thu hẹp khoảng cách với Thái Lan
Nhờ lỗ lực trong thực hiện 3 giảm 3 tăng, 5 giảm 1 phải…, trong việc nghiên cứu chọn tạo giống mới, áp dụng kỹ thuật canh tác và thay đổi cơ cấu giống phù hợp, áp dụng ngày càng cao giống xác nhận nên ở ĐBSCL năng suất và sản lượng lúa ngày càng tăng góp phần vào xuất khẩu của cả nước ngày một nhiều hơn giúp giảm khoảng cách chênh lệch về số lượng gạo xuât khẩu với nước đứng đầu thế giới là Thái Lan từ trước đến nay.
Số liệu gạo xuất khẩu từ năm 2003 đến 5 năm gần đây nhất cho thấy triển vọng đuổi kịp Thái Lan về số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ trở thành hiện thực trong tương lai gần. Nếu như từ năm 2003 trở về trước gạo xuất khẩu của Việt Nam chênh lệch so với Thái Lan quá lớn (hơn một nửa là 3,8 triệu tấn so với 8,4 triệu tấn), thì từ năm 2006 đến năm 2010 sự chênh lệch ngày một giảm dần và cho đến 2010 sự chênh lệch chỉ là 2,28 triệu tấn (6,75 so với 9,03 triệu tấn).
Về năng suất, từ năm 1999/2000 cho đến 10 mười năm sau (2009/2010) Việt Nam đã có bước gia tăng năng xuất lúa bình quân rất lớn từ 4,14 T/ha lên 5,30 T/ha. Như vậy, sau 10 năm, năng suất lúa của Việt Nam gia tăng 1,16 T/ha. Trong khi đó Thái Lan cũng với thời gian so sánh tương tự thì năng suất tương ứng là 2,61 T/ha (1999/2000) so với 2,72 T/ha (2009/2010), và gia tăng năng suất sau 10 năm của Thái Lan chỉ là 0,11 T/ha. Sự chênh lệch gia tăng năng suất của Việt Nam so với Thái Lan là 1,05 T/ha. Tuy nhiên sự gia tăng này chỉ để tham khảo vì nó không liên tục theo thời gian.
Về sản lượng lúa gia tăng sau 10 năm của Việt Nam là 13,529 triệu tấn so với Thái Lan là 10,500 triệu tấn. Như vậy Việt Nam đã gia tăng sản lượng sau 10 năm cao hơn Thái Lan 3,1 triệu tấn. Từ số liệu của những nguồn quan trọng về năng suất và sản lượng lúa sản xuất của Việt Nam và Thái Lan càng củng cố thêm triển vọng gia tăng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng thu hẹp khảng cách với Thái Lan và có khả năng đuổi kịp Thái Lan trong tương lai gần./.








