Triển khai chương trình nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản và một số biện pháp kiến nghị
Bối cảnh nông thôn mới trong thủy sản
Bờ biển Việt Nam có chiều dài 3.260 km, với 112 cửa sông lạch, trung bình cứ 100 km2 diện tích tự nhiên lại có 1 km bờ biển và gần 30 km bờ biển lại có cửa sông. Trong số 63 tỉnh và thành phố, có tới 28 tỉnh ven biển với số dân hơn 44,4 triệu người, chiếm 51,53% tổng dân số cả nước. Từ xa xưa, người dân Việt Nam đã gắn bó mật thiết với biển. Nghề cá là nghề truyền thống từ lâu đời, gần gũi không chỉ với người dân ở vùng nông thôn ven biển, mà cả cộng đồng dân cư trong đất liền, nơi có nhiều thủy vực tự nhiên, nhiều triệu hecta như sông ngòi, kênh rạch, hệ thống hồ chứa tự nhiên và hệ thống ao đầm nhỏ và nơi ruộng trũng thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. Xây dựng nông thôn mới trong nông nghiệp nói chung và thủy sản nói riêng nằm trong tổng thể chung nhằm phát triển kinh tế - xã hội của từng hộ nông, ngư dân, trong phạm vi của từng địa phương và cả nước đã trở thành nhu cầu tất yếu để phát triển ổn định và bền vững nông thôn Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng cơ chế chính sách; hướng dẫn chỉ đạo địa phương xây dựng kế hoạch xây dựng nông thôn mới, trên cơ sở rút kinh nghiệm 11 mô hình của Ban Bí thư, các địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh, huyện và Ban quản lý dự án xuống cấp xã để xây dựng kế hoạch phát triển nông thôn mới phù hợp với địa phương mình ở 63 tỉnh, thành. Đến nay hầu hết hơn 7.000/ 9.111 xã đã có quy hoạch về xây dựng nông thôn mới.
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã có 100% số xã, phường có quy hoạch xây dựng nông thôn mới theo tiêu chí của Nghị quyết số 26 và Quyết định số 491/QĐ-TTg về bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, bước đầu đang triển khai xây dựng và là những địa phương làm tốt trong phong trào này.
Nông thôn có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tùy thuộc vào nội hàm nghiên cứu, trong một lĩnh vực cụ thể đối với nghiên cứu nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản bao gồm các xã ven biển, bãi ngang và nội đồng có ưu thế mạnh về khai thác, nuôi trồng và trong đó các hộ có nguồn gốc thu nhập chính từ khai thác và nuôi trồng chiếm đại đa bộ phận. Điểm khác biệt lớn nhất giữa nông thôn của thủy hải sản ven biển, nuôi trồng thủy hải sản với nông nghiệp đó là việc sử dụng tư liệu sản xuất, kỹ năng lao động và sản xuất làm ra (tàu thuyền mặt nước nuôi và cá, tôm, cua, ghẹ), một số tập quán của nghề cá khác với nghề nông nghiệp như phương thức sản xuất văn hóa, tín ngưỡng… Nông thôn trong thủy sản có phần chung với nông nghiệp đó là mặt nước nuôi, gắn liền với vùng sản xuất nông nghiệp của nông dân, địa bàn chung sống, và sự mong muốn làm giàu cho chính bản thân mình và xây dựng quê hương.
![]() |
Xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế biển, kinh tế hộ nông, ngư dân ở nông thôn, đảm bảo đưa nước ta thành một nước giàu có từ kinh tế biển, giàu có về xuất khẩu sản phẩm khai thác, nuôi trồng thủy sản.
Xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản làm chuyển dịch kinh tế nghề cá từ lạc hậu đến hiện đại; góp phần làm cho vùng nông thôn ven biển có nền văn hóa từng bước được nâng cao, giảm khoảng cách giàu nghèo của từng hộ, địa phương và cả nước; ứng phó được với biến đổi khí hậu trong khai thác; bảo vệ môi trường trong nuôi trồng; kiểm soát được chất lượng sản phẩm từ ao nuôi, tàu cá tới bàn ăn.
Mặt khác, xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản sẽ đóng góp vào công cuộc giữ gìn an ninh trên vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của đất nước. Có thể khẳng định, sự hiện diện dân sự của ngư dân với hàng ngàn tàu thuyền thường xuyên hoạt động khai thác trên biển đã và đang có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phát triển kinh tế gắn với bảo vệ vùng biển đảo của Tổ quốc.
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới trong thủy sản
1. Xây dựng các xã nông thôn mới ven biển trong khai thác, nuôi trồng nhằm phát triển kinh tế - xã hội nghề cá của 28 tỉnh ven biển, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Xây dựng các xã nông thôn mới ở 63 tỉnh, thành trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước mặn và nước lợ nhằm phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản và bảo vệ môi trường.
Nội dung xây dựng nông thôn mới trong thủy sản
Xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản đảm bảo từng xã đạt 19 tiêu chí theo Quyết định số 491/2008/QĐ-TTg về bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trong đó ưu tiên xây dựng hạ tầng kỹ thuật nông thôn ven biển (cảng cá, trung tâm sàn giao dịch buôn bán thủy sản) phục vụ cho việc phát triển sản xuất – kinh doanh và xây dựng mô hình liên kết sản xuất – tiêu thụ nhằm tạo ra cơ chế mua bán minh bạch (chất lượng, sai cỡ, giá cả thống nhất trong toàn hệ thống) vừa là mục tiêu, vừa là động lực để biến nghề cá nhân dân thành nghề cá hiện đại. Hợp lý hóa tàu cá vùng ven bờ và phát triển đội tàu khai thác xa bờ và viễn dương; Quy hoạch và xây dựng hạ tầng cho vùng nuôi trồng thủy sản tập trung đối với (tôm, nghêu, cá tra) xuất khẩu và tiêu thụ nội địa; hợp lý hóa các nhà máy chế biến xuất khẩu là bước đi cơ bản để phát triển và ổn định bền vững nghề cá nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển kinh tế biển.
Để thực hiện được những nội dung đó, giải pháp cho ngành thủy sản như sau:
Giải pháp xây dựng nông thôn mới
1/ Hình thành các hình thức Hợp tác liên kết giữa sản xuất – tiêu thụ và trung tâm mua bán sàn giao dịch trong khai thác và nuôi trồng thủy sản.
2/ Đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho khai thác (cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, trung tâm mua bán) và trong nuôi trồng (vùng nuôi tập trung, trung tâm giao dịch của cá tra, tôm, nghêu) dưới nhiều hình thức (đầu tư BOT, BTO, BT). Trong đó ưu tiên nâng cấp và xây dựng các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão.
![]() |
3/ Đầu tư khai thác xa bờ và hợp tác khai thác viễn dương với nguồn vốn ODA, FDI (đầu tư tàu cá xa bờ và viễn dương theo hình thức BT. BOT, BTO), ưu tiên đầu tư Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khai thác thủy sản viễn dương.
4/ Xây dựng mô hình liên kết giữa sản xuất – tiêu thụ thủy sản (khai thác, nuôi trồng), trong đó ưu tiên nghiên cứu và đầu tư phát triển mô hình liên kết lấy Hợp tác xã nuôi, khai thác, chế biến trong từng chuỗi ngành xuất khẩu trong nuôi, khai thác.
5/ Đầu tư xây dựng hệ thống đê bao, kết hợp di dân tại chỗ và di dân sang vùng khác nhưng vẫn không làm thay đổi nghề nghiệp của ngư dân, người nuôi nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
6/ Bám sát Hệ thống tiêu chí quốc gia về nông thôn mới theo Quyết định số 491/2008/QĐ-TTg về tiêu chí xây dựng nông thôn mới để biến các tiêu chí này thành hiện thực trong từng xã ven biển và nội đồng của lĩnh vực thủy sản.
7/ Rà soát và xây dựng dự án chương trình lồng ghép để phát triển nông thôn mới trong thủy sản và hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển ngành thủy sản.
8/ Xây dựng bộ máy tổ chức triển khai thực hiện chương trình nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản. Nhất là chú trọng xây dựng đối với tiêu chí số 13 ở Quyết định số 491 “nông thôn mới trong đó: có hợp tác xã, tổ hợp các hoạt động hiệu quả”. Thu nhập đầu người trong mô hình nông thôn mới.
Kiến nghị:
1/ Cần bổ sung cán bộ phụ trách về nông thôn mới cho lĩnh vực thủy sản từ trung ương đến cơ sở.
2/ Nhà nước cần bố trí ngân sách để thực hiện xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thủy sản. Nhất là ngân sách cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các Hợp tác xã, tổ hợp tác trong lĩnh vực thủy sản.
3/ Cần có khảo sát, đánh giá và lựa chọn địa điểm xây dựng điểm về nông thôn mới trong thủy sản, tổng kết và nhân rộng mô hình.
4/ Sửa đổi một số nội dung cho thuê đất, mặt nước nuôi trồng và cơ chế hỗ trợ vốn cho khai thác hải sản xa bờ và viễn dương.
5/ Bố trí ngân sách xây dựng điểm mô hình liên kết trong khai thác, nuôi trồng/
Phát triển thủy sản ổn định, bền vững là nhiệm vụ cấp bách của nhà nước trong thời kỳ kinh tế hội nhập nhằm tạo lập mối quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất của từng thời kỳ. Ngành thủy sản cần coi trọng xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với nội lực của lực lượng sản xuất ngành như hiện nay. Nhất là chú trọng đối với các chương trình mục tiêu quốc gia (đào tạo, nông thôn mới và biến đổi khí hậu toàn cầu).










